Cập nhật thông tin chi tiết về Van Dong Cua Co The mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
BÀI 1: VẬN ÐỘNG CỦA CƠ THỂ
I. CÁC LỰC CÓ LIÊN QUAN ÐẾN SỰ VẬN ÐỘNG CỦA CƠ THỂ
Trường hấp dẫn của Trái Ðất, do khối lượng của Trái Ðất tạo ra ở gần bề mặt của nó được gọi là trọng trường. Trọng trường là nguyên nhân làm cho mọi vật phải rơi vào bề mặt của Trái Ðất, giữ cho trái đất có một lớp khí quyển bao quanh; Lớp khí nầy bảo vệ mọi sinh vật trên Trái Ðất và Trái Ðất tránh được tác hại do các bức xạ mạnh phát ra từ trong vũ trụ.
Trọng lực tác dụng lên một cơ thể là lực hấp dẫn của Trái Ðất tác dụng lên cơ thể đó; thông thường người ta còn gọi là lực hút của Trái Ðất:
với m là khối lượng của cơ thể hoặc vật ; g là gia tốc trọng lượng.
Lực nầy không phụ thuộc vào việc Trái Ðất có quay hay không và nó luôn có phương hướng vào tâm của Trái Ðất. Ðiểm đặt của trọng lực lên cơ thể được gọi là trọng tâm.
Tại gần bề mặt của Trái Ðất gia tốc trọng trường được tính bằng công thức:
@ 9,81 m/s2 (1.1)
với R; M lần lượt là bán kính và khối lượng của Trái Ðất (R= 6400km; M=5,98.1024 kg)
trong hệ đơn vị SI, hằng số hấp dẫn bằng G = 6,67.10 (11 m3/kg.s2
Trường hợp tổng quát, khi xét riêng về độ lớn gia tốc trọng trường tại một điểm bất kỳ có độ cao là h so với mặt đất có thể viết lại là:
(1.2)
Công thức chứng tỏ gia tốc trọng trường tỷ lệ nghịch với độ cao; càng lên cao gia tốc trọng trường càng giảm nên g có gía trị cực đại tại mặt đất gmax =go. Ta có thể tính gần đúng g theo ở một độ cao h công thức:
(1.3)
Nếu như h nhỏ hơn nhiều so với R ta có thể xem như g ( g0,
trong trường hợp h lớn hơn rất nhiều so với R thì gía trị g sẽ tiến về không, lực hấp dẫn tại đó có thể xem bằng không.
Gia tốc trọng trường phụ thuộc vào vĩ độ:
Từ biểu thức của go ta thấy go phụ thuộc vào bán kính R của Trái Ðất. Trái Ðất thực ra không phải là hình cầu mà có dạng Elipxôit, hơi dẹt ở hai cực nên độ lớn của go giảm khi đi từ hai cực về xích đạo, nghĩa là go phụ thuộc vào vĩ độ của Trái Ðất (Hình 1.1)
Sự phụ thuộc nầy không vượt qúa 5,5% nên trong các tính toán thông thường không cần độ chính xác cao, ta có thể lấy g = 9,81 m/s2.
Cơ thể con người là một hệ phức tạp với nhiều bộ phận có đặc tính cấu tạo và hoạt động khác nhau. Tùy vào những vị trí khác nhau của cơ thể người khi sinh hoạt như vị trí đứng, vị trí ngồi, vị trí nằm mà trọng lực của một số bộ phận trong cơ thể tạo áp lực lên một số bộ phận khác trong cơ thể, từ đó có thể làm kích thích hoặc hạn chế hoạt động của các bộ phận chịu áp lực từ những phần khác trong cơ thể. Trọng tâm của cơ thể, điểm đặc toàn bộ trọng lực lên đó cũng sẽ thay đổi theo những vị trí khác nhau của cơ thể người. Khi bạn đứng lâu, hai chân bạn bị áp lực của toàn bộ cơ thể; mặc khác chân bạn lại bị phản lực của mặt đất tác dụng ngược từ dưới lên làm cho các mạch máu dưới lòng bàn chân bị ép lại, bạn sẽ cảm thấy tê chân; Tương tư như cách lý luận trên, khi bạn nằm, bạn phải luân phiên thay đổi vị trí tiếp xúc của lưng bạn với mặt gường, khi ngũ tránh tạo áp lực của đầu hoặc thân mình lên tay và chân; Trong sự ăn uống, việc đưa thức ăn từ miệng xuống bao tử được thực hiện dễ dàng nhờ vào tác dụng của trọng lực. Ởí điều kiện không có trọng lực như trường hợp phi công bay vào khoảng chân không, muốn thực hiện việc uống nước, phi công cần dùng một ống hút để hút chất lỏng vào miệng.
Lực căng nói chung là một dạng của lực đàn hồi xuất hiện khi chiều dài của vật đang xét bị thay đổi. Bản chất của lực đàn hồi chính là lực tĩnh điện tức là lực đẩy hay lực hút giữa các hạt tích điện. Ta hãy xét cụ thể một chất điện môi (phần lớn các bộ phận cơ thể cấu tạo từ chất điện môi) có cấu trúc phân tử lưởng cực (Hình 1.2). Sự liên kết tĩnh điện giữa các đầu của các cực lưỡng được biểu diễn giống như liên kết giữa các lò xo; Khi làm nén hoặc giãn lò xo, lực đàn hồi của lò xo có tác dụng chống lại ngoại lực và làm cho vật trở lại kích thước ban đầu.
Công thức của lực đàn hồi (Ðịnh luật Hoock) có thể viết dưới dạng tổng quát là:
(1.4)
k được gọi là hệ số đàn hồi có đơn vị là N/mn, x là độ lệch của vật so với vị trí cân bằng (vị trí mặc nhiên mà lò xo không bị nén hoặc giãn), n là số nguyên dương (trong đa số các trường hợp là 1.0)
Các bộ phận trong cơ thể người và cả động vật liên kết với nhau bằng các tế bào cơ mà lực căng, giãn của các tế bào cơ có thể điều khiển được nhờ hệ thống thần kinh và các dây thần kinh. Khi con người vận động, các bộ phận trong cơ thể sẽ dao động làm cho vị trí của bộ phân đó so với khối tâm thay đổi; lực căng của các tế bào cơ sẽ làm tắt các dao động và giữ cho khoảng cách tương đối giữa các bộ phận không thay đổi đáng kể. Lưu ý rằng tùy thuộc vào tính chất của sự vận động như chạy, nhảy, leo, khiêng, đẩy, kéo mà một số cơ đặc biệt trên các chi sẽ căng hoặc giãn đến một mức độ thích hợp cho sự vận động đó. Thực tế cho thấy các cơ tay của bạn có thể kéo được một lực lớn gấp 8 lần lực kéo của cánh tay bạn thực hiện bởi vì khoảng cách từ nơi bạn đặt lưc kéo đến điểm tựa là xương cánh tay lớn gấp 8 khoảng cách từ cơ đến điểm tựa.
Lao động và vận động thường xuyên sẽ làm cho các cơ mau đạt được mức độ căng hoặc giãn mong muốn, đó là qúa trình tập luyện.
Con người có thể di chuyển được trên mặt đất, có thể cầm nắm được các vật, có thể dùng công cụ để lao động; toàn bộ những việc đó đều do vai trò của lực ma sát.
Lực ma sát xuất hiện khi có sự tiếp xúc và chuyển động tương đối của các vật tiếp xúc với nhau. Nếu hai vật chuyển động tiếp xúc là vật rắn người ta gọi đó là lực ma sát khô; Nếu một hoặc cả hai vật là chất lưu (chất khí và lỏng) thì được gọi là ma sát nhớt. Ta có thể thấy ma sát giữa máu chảy trong các ống động mạch, tĩnh mạch; ma sát của các luồn khí vận chuyển trong cơ thể khi con người hô hấp là những dạng ma sát nhớt.
Ðặc điểm của các lực ma sát là luôn luôn có phương tiếp tuyến với mặt tiếp xúc của 2 vật chuyển động tương đối; chiều luôn ngược với chiều chuyển động của hai vật; độ lớn của lực ma sát khô tỷ lệ với phản lực của vật bị nén tác dụng lên vật nén nó và tỷ lệ với hệ số ma sát. Lực ma sát khô chia làm ba loại là lực ma sát khoa lớp 10).
Người ta tìm được công thức xác định độ lớn lực ma sát nhớt khi vận tốc chuyển động tương đối của các vật là nhỏ:
(1.5)
Khi vận tốc chuyển động tương đối lớn:
(1.6)
ĉ lần lượt là các hệ số ma sát nhớt có thứ nguyên khác nhau.
Mỗi loại lực ma sát có hệ số ma sát khác nhau; các hệ số ma sát nầy thay đổi theo điều kiện cụ thể của các vật tiếp xúc. Những vật có bề mặt gồ ghề khi chuyển động cọ sát với các vật khác sẽ có hệ số ma sát lớn, điều đó giúp ta hiểu tại sao trên bàn tay, bàn chân người lại có rất nhiều vân tay.
Ðiều ta cần lưu tâm là khi bước đi, chạy xe trên những nơi quá trơn trợt như băng tuyết, dầu nhớt, bùn sình chúng ta cần tạo một sự ma sát lớn để cho các bước chân khi di chuyển được vững chắt.
II. CÁC DẠNG NĂNG LƯỢNG CỦA CƠ THỂ THỰC HIỆN
Công của cơ thể thực hiện lên ngoại vật là một quá trình biến đổi những năng lượng bên trong cơ thể (nội năng) thành nhữngû vận động của các chi trên cơ thể. Nếu lực tác dụng không đổi trên đoạn đường di chuyển, công A được tính bằng tích của lực căng cơ F và quãng đường x của lực đó thực hiện:
A=F.x (1.7)
Ví dụ như một người mang vật năng khối lượng 50kg, sẽ phải sử dụng một lực căng cơ khoảng: F= mg= 50.9,81= 490,5 N, nếu người đó di chuyển vật đi 1m thì công người đó thực hiện là A= F.x= 490,5 J.
Nếu như lực căng cơĠ và đoạn đường dịch chuyểnĠ tạo với nhau một góc
Nếu = 90o, lực không tác dụng đến chuyển động cho nên không sinh công.
Trong thực tiễn, đơn vị thông thường của công là Joule (J) = 1 Nm = 1 kg m2/s2
Trong hệ đơn vị CGS, đơn vị của công là 1 erg = 1 dyn cm = 1g cm2/s2
Công toàn phần
Trong trường hợp tổng quát, lựcĠ thay đổi theo không gian và thời gian nên khi tác dụng liên tục lên chất điểm m sẽ làm cho nó dịch chuyển theo đường cong (C) từ điểm M cho đến điểm N (hình 2.14). Ðể tính công toàn phần, ta chia cung MN thành nhiều cung nhỏ ds (thể xem như nhiều đoạn thẳng dr). LựcĠtác dụng lên mỗi đoạn đó là không đổi.
Công nguyên tố trên mỗi đoạn nhỏ đó là:
Công toàn phần trên cung MN là tổng tất cả công nguyên tố trên từng đoạn nhỏ ds:
AMN =
(1.9)
Khi N
AMN =
(1.10)
Công suất:
Công của các lực căng cơ không thể duy trì liên tục do sự mỏi cơ, cho nên con người không thể phát động các lực liên tục và sinh công liên tục. Khái niệm công suất đặt trưng cho khả năng mạnh hay yếu, lâu hay mau của cơ thể khi thực hiện công.
Giả sử trong thời gian (t, cơ thể thực hiện một công là (A và sau đó do sự mỏi cơ nên không thể duy trì lực căng cơ nửa. Công suất trung bình của cơ thể khi thực hiện công trong thời gian (t là:
Ntb =
(1.11)
Công suất trung bình là công thực hiện trong một đơn vị thời gian. Nếu lấy giới hạn của tỉ số trên khi ( t ( 0 ta có giá trị công suất tức thời tại thời điểm t:
N =
(1.12)
ta có thể viết lạiĺ (1.13)
Xét mối liên hệ giữa công suất và vận tốc
N =
(1.14)
Công suất bằng tích vô hướng của lực tác dụng nhân với vận tốc. Trong thực tế, mỗi người có một công suất thực hiện cực đại khác nhau; khi ta tạo một lực căng cơ càng lớn thì vận tốc dịch chuyển ngoại vật càng nhỏ, và động tác của con người càng chậm. Ðó là khi người phải khuân vác, đẩy kéo một vật có khối lượng khá lớn so với cơ thể của người tác dụng lực. Ngược lại các hoạt động nghệ thuật, thẩm mỹ như đàn piano, múa vũ, vẽ tranh, đánh bóng bàn… Ðiều quan trọng là cần có vận tốc thực hiện nhanh và chính xác, nên phải làm sao hạn chế trọng lượng của công cụ cầm tay; Các dụng cụ y khoa để phẩu thuật cũng cần được chế tạo có kích thước nhỏ và khối lượng nhẹ để các bác sỹ có thể thực hiện các thao tác mổ vết thương chính xác và không tạo ra nguy hiểm cho bệnh nhân.
Trong kỹ thuật, đơn vị công suất là Watt (W) = ı= ı
Trong hệ CGS đơn vị công suất là: ı= ı
Trong kỹ thuật, người ta còn dùng đơn vị được gọi là mã lực Hp (Horse power)
1Hp = 736 (W)
Hầu hết công do cơ thể sinh ra là kết quả của sự co cơ. Khi cơ co, chiều dài bị rút ngắn và tạo nên một lực; lực này có giá trị phụ thuộc vào chiều dài cơ. Gọi x là chiều đài cơ, dx là biến đổi rất nhỏ của chiều dài cơ, F(x) là lực phát sinh do co cơ, ta có thể viết công A do cơ sinh ra là:
Việc tính A theo lý thuyết có thể dựa vào đồ thị trên hình 1.5; một cách gần đúng có thể dùng công thức suy ra từ đồ thị này:
Amax= 0,45Fmax.DXmax 1.16
trong đó Fmax là lực lớn nhất do cơ sinh ra, là chiều dài bị rút ngắn lớn nhất của cơ.
Cơ sử dụng năng lượng không phải chỉ để tạo ra công cơ học; một phần lớn năng lượng cơ dùng để duy trì sự căng thẳng của cơ và một phần chuyển thành nhiệt năng. Phần năng lượng chuyển thành nhiệt năng trên một đơn vị khối lượng trong một đơn vị thời gian khoảng 1,6.10-2 J/Kg.s. Khi cơ co giá trị đó tăng lên nhiều lần.
Hiệu suất của công do co cơ có thể tính bằng tỷ số giữa công AC trong thực tế và công tổng cộng Amax mà đáng ra cơ phải thực hiện được theo lý thuyết khi sử dụng một giá trị năng lượng tương ứng:
1.17
Hiệu suất này chỉ đạt 20-30% nếu xét từng cơ riêng lẽ; hiệu suất còn phụ thuộc vào giới tính, vào tuổi tác (hình 1.6) và thay đổi tùy theo sự tập luyện của cơ. Ở đồ thị này, người ta lấy 100% là hiệu suất của lứa tuổi 25-28, đạt tới tối đa.
Tuy vậy do sự phối hợp của nhiều cơ trong từng nhóm khi hoạt động nên hiệu suất có thể lớn hơn. Sự khác nhau của máy cơ học và bắp cơ sinh vật là: trong bắp cơ một phần hóa năng được chuyển thẳng sang cơ năng và phần còn lại chuyển sang nhiệt năng, trong lúc đó ở các máy cơ học trước hết các năng lượng phải được chuyển thành nhiệt năng rồi từ đó mới chuyển sang dạng cơ năng.
Năng lượng dùng khi co cơ lấy trực tiếp từ ATP (Adenosine Tri Phosphate). Lượng ATP có sẵn trong cơ không nhiều, người ta đã tính thấy rằng năng lượng trực tiếp từ lượng ATP có sẵn trong cơ không đủ cho cơ hoạt động trong vòng một giây. Vì vậy để cơ hoạt động được liên tục phải có quá trình tổng hợp ATP tại cơ. Việc tổng hợp này thực hiện được nhanh chóng nhờ trong cơ có một hợp chất giàu năng lượng khác là phosphocreatin, ATP được tổng hợp trong cơ qua phản ứng được thu gọn sau đây:
Phosphocreatin ATP + Creatin
Quá trình tổng hợp này cũng rất ít, nghĩa là cũng chỉ đủ cho cơ hoạt động trong mấy giây. Khi các nguồn dự trữ này cạn, ATP được tổng hợp theo một cơ chế khác nhờ sự phân hủy glycogen. Glycogen là một dạng tích trữ của glucose có nhiều trong cơ. Năng lượng được giải phóng khi phân hủy glycogen được dùng dể tổng hợp ATP. Có thể biểu diễn một cách tổng quát quá trình đó như sau:
Glucose + 3H3P04 + 2 lactat + 2ATP + 2H2O
Khối lượng ATP được tổng hợp nhiều thì lượng lactat càng tích tụ nhiều và kìm hãm quá trình tổng hợp ATP. Nhờ phương thức trên nên khi co cơ mạnh mà máu nhất thời không được cung cấp đủ để mang lại cho các phản ứng hóa sinh, cơ vẫn có đủ năng lượng để hoạt động. Ðó là quá trình cung cấp năng lượng yếm khí cho cơ.
Ðó là công được thực hiện bởi các cơ hô hấp để thắng tất cả các lực cản khi thông khí. Hoạt động của các cơ riêng biệt ở các giai đoạn khác nhau của chu kỳ hô hấp và ở các điều kiện khác nhau được nghiên cứu bằng phương pháp ghi điện cơ. Việc đo công của các cơ hô hấp một cách trực tiếp không thực hiện được, vì vậy người ta thường dùng phương pháp gián tiếp để đo công hô hấp. Ở hệ hô hấp công được tính bằng tích số của áp suất và giá trị của thể tích thay đổi tương ứng. Vì áp suất khí trong hệ hô hấp là một đại lượng biến đổi nên việc xác định công A thực hiện lý thuyết theo tích phân:
1.18
Trong thực tế có thể xác định A bằng phế dung kế (dụng cụ đo dung tích phế quản).
Kết quả thu được là gần đúng, cho biết ở trạng thái tĩnh (thông khí dưới 10 lần/phút) công hô hấp khoảng 1-5J trong một phút. Khi tăng thể tích thở trong một phút, công hô hấp sẽ tăng nhưng không tỷ lệ với tốc độ thay đổi thể tích vì điều đó có dẫn khí (công của lực ma sát nhớt khi vận tốc chảy lớn tỉ lệ bình phương vận tốc). Khi thở sâu với tần số thở thích hợp thì chi phí công nhỏ nhất, điều đó thực hiện được nhờ hệ thống điều khiển hô hấp và quá trình tập luyện.
Tim hoạt động thường xuyên như một cái bơm liên tục để tạo được áp suất đẩy máu vào mạch. Do các van ở tim và ở mạch mà máu trong hệ tuần hoàn chuyển động theo một chiều xác định. Công suất cơ học của tim vào khoảng 1,3(1,4W. Giá trị này rất nhỏ so với giá trị chuyển hóa cơ bản của toàn cơ thể là khoảng 100W. Thực ra tim không phải chỉ thực hiện công cơ học. Cơ tim cũng như các cơ khác của cơ thể còn luôn luôn làm việc để giữ một độ căng nhất định ta gọi là trương lực. Giống như lúc ta chống tay lên thành ghế, tuy ta không di chuyển nghĩa là cơ không thực hiện một công cơ học nhưng mật độ căng của cơ đòi hỏi hoạt động tích cực của cơ và cuối cùng ta cũng mỏi tay. Người ta tính được rằng công suất tổng cộng của cơ vào 13W nghĩa là 13% chuyển hóa cơ bản toàn cơ thể. Công cơ học của tim tạo ra áp suất đẩy máu, phần còn lại tạo ra độ căng của cơ tức là trương lực cơ.
Ðể hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa áp lực và trương lực của buồng tim ta phải vận dụng đến định luật Laplace. Ðịnh luật Laplace áp dụng chủ yếu tạo cho một màng phân chia khoảng không gian thành 2 khu vực trong và ngoài màng. Mặt trong lõm và mặt ngoài lồi, có 2 đường kính của hai trục chính r1 và r2 vuông góc với nhau và có thể không bằng nhau. Áp suất trong màng p và sức căng T có mối liên hệ như sau (Hình 1.7):
1.19
Nếu cơ tim bị bệnh, có thể bị giãn rộng và do đó các bán kính r1 và r2 của buồng tim tăng lên, lúc đó giá trị của T tăng lên bởi vì:
T =
Với một giá trị năng lượng nhất định, khi phần dành cho việc sinh trương lực T tăng lên thì giá trị công cơ học tạo ra p sẽ giảm xuống. Trạng thái đó nếu đến một giá trị nhất định, gọi là suy tim.
Cũng như các cơ khác, hoạt động của cơ tim đòi hỏi cung cấp năng lượng. Trong cơ thể, năng lượng này lấy từ liên kết hóa học giàu năng lượng ATP. ATP được sản xuất từ sự phân ly các đường glucose và oxy hóa phospholipid. Ðặc điểm của cơ tim khác với cơ khác là cơ tim sử dụng năng lượng chủ yếu từ oxy hóa phospholipid chứ không phải từ phân tử đường đơn glucose. Ta biết rằng oxy hoá một phân tử lipid cung cấp nhiều năng lượng hơn là oxy hóa một phân tử glucose. Tuy nhiên trong những trường hợp mà lượng ATP trong cơ tim bị giảm nhiều thì quá trình phân ly glucose tăng lên. Do vậy xuất hiện những sản phẩm mới có hại như acid lactic. Sự suy giảm qúa trình chuyển hóa phospholipid và khí oxy cung cấp cho cơ tim có thể gây nên tình trạng thiếu ATP ở cơ tim và làm yếu hoạt động của tim.
Cũng phải nhấn mạnh thêm rằng hiệu suất sử dụng năng lượng để biến đổi thành công cơ học ở cơ tim có khi lên đến 20% – 30% (lúc lao động nặng). Ðó là một hiệu suất rất lớn nếu so với các máy móc nhân tạo. Hiệu suất máy hơi nước chỉ 3,5% và máy nổ là 7,5%. Phần năng lượng còn lại được biến thành dạng nhiệt năng.
III. CÁC DẠNG NĂNG LƯỢNG BÊN TRONG CỦA CƠ THỂ
Từ một số quan sát thực nghiệm, chúng ta thấy trong chuyển động của một vật có xuất hiện lực ma sát của môi trường, vật phải sinh công để chống lại sự cản trở đó và đi kèm theo đó là có sư nóng lên của vật chuyển động hoặc vật cản. Ðiều nầy có nghiã là công có thể làm tăng nhiệt độ của vật tức là công có thể biến thành nhiệt lượng. Nhiệt độ là một đại lượng dùng để chỉ sự nóng lạnh của các vật thể, tuy nhiên độ nóng lạnh lại phụ thuộc vào cảm giác chủ quan của con người khi dùng da để tiếp xúc nguồn nhiệt, cho nên phải biểu diễn nhiệt độ thông qua năng lượng. Theo Kelvin nhiệt độ đặc trưng cho năng lượng của chuyển động hổn loạn của phân tử hoặc nguyên tử trong môi trường khi nhiệt tuyết đối cao hơn 0 0K. Ðộng năng trung bình của một phân tử hoặc nguyên tử trong chuyển động hổn loạn tính bằng:
(1.27)
Như vậy, khi biết năng lượng của một khối vật thể có nhiều phân tử hoặc nguyên tử ta có thể tính lại nhiệt độ tuyết đối của khối vật thể đó.
Nhiệt độ chúng ta vẫn thường dùng trong đời sống là nhiệt độ Celsius (độ C) được hình thành khi người ta dùng mức nhiệt độ của nước đá đang tan và mực của nước nguyên chất sôi ở áp suất khí quyển (1 atm). Người ta chia khoảng giữa hai mực nầy làm 100 đoạn bằng nhau và qui ước mức nhiệt độ của nước đá đang tan là 0OC và mức của nước nguyên chất sôi ở áp suất khí quyển là 100oC. Với thang nhiệt độ nầy, nhiệt độ của cơ thể người vào khoảng 37 oC. Nhiệt độ Celsius sai lệch so với nhiệt độ tuyệt đối theo công thức:
(1.28)
và tại nhiệt độ 00 C thì nhiệt độ tuyệt đối là 273,160 K.
Ngoài hai loại thang nhiệt độ trên, còn có các thang nhiệt độ khác là: thang nhiệt độ Réomur (0R) và thang nhiệt độ Fahreinheit (0F). Nhiệt độ của các thang nầy tính theo công thức:
(1.29)
Những qúa trình năng lượng xảy ra trong các cơ thể sống và những hệ động học đều tuân theo nguyên lý cơ bản của nhiệt động lực học. Nguyên lý nầy cho rằng: Nếu không có ngoại lực và nội lực tác động lên hệ thì hệ đó ở trạng thái cân bằng nhiệût động, tức là nhiệt độ của hệ không thay đổi. Hệ qủa của phát biểu nầy là nếu có hai hệ cân bằng với cùng một hệ thứ ba thì hai hệ đó cũng cân bằng với nhau.
Sự nở vì nhiệt
Tất cả các khối khí đều có hiện tượng nở thể tích khi nhiệt độ của chúng tăng lên theo định luật Gay-Lussac trong điều kiện áp suất không đổi:
(1.30)
trong đó V0 là thể tích của khối khí ở 00 C, Vt là thể tích của khối khí ở t0 C, ( gọi là hệ số dãn nở thể tích của khối khí. Nói chung, với các khí khác nhau thì hệ số dãn nở thể tích gần như nhau và bằng:
(1.31)
Ðối với các chất lỏng sự thay đổi thể tích cũng tuân theo công thức trên nhưng hệ số dãn nở thể tích đối với chất lỏng nhỏ hơn hệ số dãn nở thể tích đối với chất khí từ 2 đến 20 lần. Nếu hạ thật thấp nhiệt độ lúc đó chất lỏng sẽ biến thành chất rắn (sự động đặc) và khi đó hệ số dãn nở thể tích sẽ giãm nhiều hơn nửa.
Với chất rắn, chiều dài của một vật sẽ tăng lên khi nhiệt độ tăng theo công thức:
(1.32)
trong đóĠlà chiều dài của vật ở 00 C, trong đóĠlà chiều dài của vật ở t0 C, ( gọi là hệ số dãn nở của chất rắn . Nói chung, với các kim loại khác nhau thì hệ số dãn nở chiều dài gần như bằng:
(1.33)
Ðối với thuỷ tinh thạch anh hệ số dãn nở chiều dài là rất nhỏĠvì vậy người ta thường dùng thuỷ tinh thạch anh để làm các dụng cụ thí nghiệm chiụ được sự thay đổi lớn của nhiệt độ. Một số kim loại ít giãn nở và không rĩ sét được dùng chế tạo các bộ phận nhân tạo thay thế các bộ phân bị hư trong cơ thể.
Ta thấy khi nhiệt độ của khí lý tưởng thay đổi thì nội năng của khí cũng thay đổi. Vậy ta có thể làm thay đổi nội năng của khí bằng sự trao đổi nhiệt lượng giữa khí với ngoại vật (Cho khí tiếp xúc với ngoại vật). Phần năng lượng chuyển động nhiệt đã được truyền từ
ì vật này đến vật khác gọi là nhiệt lượng.
Ta có thể làm thay đổi nhiệt độ của khí bằng cách thực hiện công cơ học. Chẳng hạn, để làm nóng khí lên, ta dùng tay nén khi một cách đột ngột. Ngược lại để làm khí lạnh đi, ta để cho khí tự dãn ra đột ngột và khí sẽ thực hiện công cơ học.
Vậy sự truyền năng lượng được thực hiện dưới hai hình thức khác nhau. Ðó là sự truyền nhiệt lượng và sự thực hiện công cơ học. Sự truyền nhiệt lượng là hình thức truyền năng lượng xảy ra trực tiếp giữa những nguyên tử hay phân tử chuyển động hỗn loạn cấu tạo nên các vật đang tương tác; còn sự thực hiện công là hình thức truyền năng lượng giữa những vật có kich thước lớn chuyển động tương đối với nhau .
Căn cứ vào bản chất vật lý của nhiệt lượng và công cơ học thì hai đại lượng này phải đo bằng cùng đơn vị. Trong hệ SI đơn vị đo nhiệt lượng hay công cơ học là Joule (J).
Trong quá trình phát triển của vật lý học, lúc đầu do chưa hiểu được bản chất của các hiện tượng nhiệt, nên dựa vào thuyết “chất nhiệt” người ta đã quy ước đo nhiệt lượng bằng calo (viết tắt là cal) tức là nhiệt lượng để làm nóng một gam (g) nước ở áp suất chuẩn (p =1atm) từ 19,5oC đến 20,5oC.
Ðơn vị nhiệt lượng còn có thể chọn là Kcal: 1 Kcal = 1000 cal.
Khoảng giữa thế kỷ 19, Joule đã chứng minh bằng thực nghiệm mối liên quan định lượng giữa đơn vị J và đơn vị cal.
1 cal = 4,18 J.
Ðể của nhiệt là:
I = 4.18 J/cal. (1.34)
Vàì đương lượng nhiệt của công là
I’ =
(1.35)
Nhiệt lượng và công cơ học tuy cùng đơn vị nhưng sự truyền nhiệt lượng và sự thực hiện công là hai hình thức truyền năng lượng khác nhau. Sự truyền nhiệt cho hệ là sự truyền năng lượng của chuyển động hỗn loạn của các phân tử từ nơi này đến nơi khác và trực tiếp dẫn đến sự tăng nội năng của hệ. Ngược lại, sự thực hiện công lên hệ là sự truyền của cùng một dạng năng lượng bất kỳ nào đó (không phải là năng lượng chuyển động nhiệt) từ nơi này đến nơi khác.
a) Phân bố năng lượng theo bậc tự do:
Khi xét chuyển động của khí mà phân tử có 2 nguyên tử “rắn chắc” (như H2, O2, N2 v.v…) thì số bậc tự do chuyển động của phân tử đó bằng 5 trong đó 3 bậc tự do ứng với chuyển động tịnh tiến (theo các phương OX, OY, OZ) và 2 bậc tự do ứng với chuyển động quay (Phân tử chỉ có hai bậc tư do quay vì nó không thể quay quanh đường nối tâm của hai nguyên tử ). Như vậy động năng trung bình của một phân tử gồm 2 nguyên tử là:
(1.35)
Do đó năng lượng chuyển động nhiệt của lượng khí lý tưởng 2 nguyên tử có N phân tử sẽ là:
(1.36)
Và đối với một mol chất khí này thì năng lượng chuyển động nhiệt là:
(J/mol) (1.37)
Ðối với phân tử có 3 hay nhiều nguyên tử liên kết rắn chắc với nhau (như H2O, NH3 v.v…) thì có 3 bậc tự do tịnh tiến và 3 bậc tự do quay, trừ trường hợp các nguyên tử nằm trên cùng đường thẳng, khi đó số bậc tự do quay chỉ có 2 (giống như đối với phân tử có 2 nguyên tử). Hình vẽ 1.8 nêu thí dụ đối với phân tử 3 nguyên tử rắn chắc. Vậy năng lượng chuyển động nhiệt của lượng khí lý tưởng 3 hay nhiều nguyên tử gồm N phân tử sẽ là :
(J) (1.38)
Và đối với 1 mol chất khí thì năng lượng chuyển động nhiệt là:
Em= 3NAkT = 3RT (J/mol) (1.39)
Các nguyên tử trong phân tử không phải lúc nào cũng liên kết chắc với nhau, khoảng cách giữa chúng có thể thay đổi. Trong trường hợp này, nếu các phân tử có n nguyên tử thì số bậc tự do sẽ là 3n (vì mỗi nguyên tử có 3 bậc tự do). Tuy nhiên, ở điều kiện bình thường đa số chất khí đều tạo nên bởi các phân tử mà trong đó các nguyên tử liên kết rắn chắc nên ta không cần xét kỹ trường hợp này.
Ở nhiệt độ bình thường các nguyên tử trong phân tử coi như không dao động. Nhưng ở nhiệt độ đủ cao, các nguyên tử sẽ dao động chung quanh vị trí cân bằng. Dao động này là dao động điều hoà. Vì giá trị trung bình của động năng và thế năng của dao động điều hoà bằng nhau cho nên nếu trong phân tử mà các nguyên tử dao động điều hoà thì năng lượng ứng với mỗi bậc tự do dao động sẽ gồm 2 phần: một phần năng lượng dưới dạng động năng có giá trị bằngĠ, một phần năng lượng dưới dạng thế năng có giá trị cũng bằng . Như vậy năng lượng ứng với 1 bậc tự do dao động không phải là mà là KT.
Nói chung năng lượng trung bình của một phân tử chuyển động gồm có động năng trung bình của chuyển động tịnh tiến ), động năng trung bình của chuyển động quay và năng lượng trung bình của chuyển động dao động nghĩa là:
(1.40)
Lý thuyết về năng lượng chuyển động nhiệt trình bày trên chỉ có tính chất gần đúng và chỉ ứng dụng được đối với chất khí ở điều kiện bình thường.
b) Nội năng
Năng lượng chuyển động nhiệt trong một vật là một thành phần của nội năng của vật ấy.
Nội năng của một vật gồm toàn bộ các dạng năng lượng trong vật gồm:
· Năng lượng chuyển động nhiệt.
· Thế năng tương tác giữa các phân tử.
· Thế năng tương tác giữa các nguyên tử trong từng phân tử.
· Ðộng năng và thế năng tương tác của các hạt cấu tạo nên nguyên tử (hạt nhân và các electron).
Tất cả các dạng năng lượng trừ 2 dạng năng lượng đầu tiên gọi chung là năng lượng bên trong các phân tử. Ðối với 1 mol vật chất ta gọi.
Em là năng lượng chuyển động nhiệt.
Et là tổng thế năng tương tác giữa các phân tử
Ep là tổng năng lượng bên trong các phân tử
Vậy nội năng U( của 1 mol vật chất được biểu thị bằng công thức.
Um = Em + Et + Ep (1.41)
Khi làm thay đổi trạng thái của vật thì nội năng sẽ biến thiên một lượng là:
dUm = dEm + dEt + dEp
(1.42)
Nhưng với những cách làm thay đổi thông thường trạng thái của vật chất chẳng hạn làm thay đổi nhiệt độ một lượng là dT thì không thể làm thay đổi năng lượng bên trong các phân tử (dEp = 0) , vì vậy:
dUm = dEm + dEt (1.43)
Áp dụng công thức (1.41) cho khí lý tưởng, vì thế năng tương tác giữa các phân tử rất nhỏ, có thể bỏ qua (Et = 0) nên nội năng của 1 mol khí lý tưởng (có bậc tự do i) là:
Um = Em+ Ep = RT + Ep
(1.44)
Khi nhiệt độ thay đổi một lượng dT, từ công thức (1.43) ta suy ra độ biến thiên nội năng của 1 mol khí lý tưởng sẽ là:
dUm = dEm =
RdT (1.45)
IV. VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ BẢO TOÀN VÀ BIẾN HÓA NĂNG LƯỢNG CHO CƠ THỂ SỐNG.
Nguyên lý bảo toàn và biến hóa năng lượng (Nguyên lý thứ nhất của nhiệt động lực học) phát biểu: “Ở những quá trình khác nhau diễn ra trong tự nhiên, năng lượng không sinh ra từ hư vô cũng không biến mất mà chỉ biến hóa từ dạng này sang dạng khác”. sự biến đổi nội năng sang cơ năng và nhiệt năng hoặc sang các dạng năng lượng khác và ngược lại.
Từ nguyên lý trên ta chứng minh được rằng: Nội năng là một hàm số đơn giá của trạng thái nghĩa là ứng với mỗi trạng thái xác định (P, V, T) chỉ có một gía trị nội năng duy nhất; Thật vậy, nếu ở một trạng thái hệ có nhiều giá trị khác nhau của nội năng thì chúng ta có thể lấy ra phần năng lượng khác nhau mà hệ vẫn không thay đổi trạng thái. Suy ra chúng ta thu được năng lượng từ hư vô. Ðiều đó trái với định luật bảo toàn và biến hóa năng lượng.
Gọi U1 , U2 là các giá trị nội năng của hệ ở trạng thái (1) và trạng thái (2), là nhiệt lượng trao đổi giữa hệ với ngoại vật và là công mà ngoại vật thực hiện lên hệ thì theo định luật bảo toàn và biến hóa năng lượng ta thấy tổng năng lượng mà hệ nhân từ bên ngoài sẽ làm nội năng của hệ tăng lên, có thể viết:
U2 – U1 = DQ + DA’
(1.46)
Trong đó các đại lượng viết ở hai vế phương trình được đo bằng cùng một đơn vị.
Vì nội năng là hàm số đơn giá của trạng thái nên độ biến thiên nội năng vẫn giữ một giá trị xác định khi chuyển hệ từ trạng thái (1) đến trạng thái (2), trong khi và có thể nhận những giá trị khác nhau tuỳ theo từng quá trình. Ta viết lại và đẳng thức sau vẩn được thoã mãn:
Ta có thể phát biểu nguyên lý thứ nhất đối với một quá trình như sau:
Nếu do sự trao đổi nhiệt và thực hiện công của ngoại vật lên hệ mà hệ chuyển từ một trạng thái xác định nầy sang một trạng thái xác định khác, thì trong mọi cách chuyển có thể xảy ra giữa hai trạng thái đó, tổng nhiệt lượng trao đổi và công thực hiện là không đổi.
Trong trường hợp hệ thực hiện một quá trình kín (chu trình) nghĩa là sau quá trình biến đổi trạng thái hệ lại quay trở về đúng trạng thái ban đầu thì ta có:
(1.47)
Hoạt động sinh công của cơ thể sống khác với hoạt động sinh công của máy nhiệt thông thường. Ơí cơ thể toàn vẹn hay ở các cơ quan riêng biệt công sinh ra không phải do dòng nhiệt lượng đi từ bên ngoài vào cơ thể. Ta lấy ví dụ đơn giản sau đây để minh hoạ.
Nếu một máy nhiệt làm việc với nguồn nóng có nhiệt độ là T1 giữ nhiệm vụ truyền cho tác nhân nhiệt lượng là Q1 và làm tác nhân sinh ra công A. Máy nhiệt đồng thời phải trao đổi nhiệt với nguồn lạnh có nhiệt độ T2 nhỏ hơn T1 và nhỏ hơn nhiệt độ của tác nhân, với nhiệm vụ lấy nhiệt lượng Q2 đưa ra ngoài thì hiệu suất của máy nhiệt là :
(1.48)
Muốn hoạt động của cơ thể sinh công với hiệu suất là 0,33 trong điều kiện nhiệt độ của nguồn lạnh là không khí ở gần 3000 K (270 C) thì theo biểu thức trên nhiệt độ của cơ thể phải đạt gần 4450 K (1720 C). Ðiều nầy thì cơ thể không thể thực hiện được vì các protein cấu tạo nên cơ bấp đã bị phân hủy khi nhiệt độ lên đến 400 ( 600 C. Như vậy trong cơ thể công sinh ra là do sự thay đổi nội năng của cơ thể nhờ các qúa trình hoá sinh hoặc nhờ vào sự thay đổi độ hỗn độn về trạng thái của hệ (Entrôpy)
Ðối với động vật thức ăn được sử dụng thông qua qúa trình đồng hóa để:
· Tái tạo các tổ chức của cơ thể.
· Tạo các chất dự trữ và năng lượng trong cơ thể.
· Phát sinh và duy trì nhiệt độ cơ thể chống lại sự mất nhiệt vào môi trường xung quanh.
· Tạo ra công trong các hoạt động cơ học của cơ thể.
Nếu gọi là nhiệt lượng sinh ra trong qúa trình đồng hóa thức ăn, là phần mất nhiệt vào môi trường xung quanh, là công mà cơ thể thực hiện để chống lại lực của môi trường ngoài, là năng lượng dự trữ dưới dạng hóa năng thì nguyên lý thứ nhất nhiệt động lực học có thể viết:
(1.48)
Ðây là phương trình cơ bản của cân bằng nhiệt đối với cơ thể cơ thể sau một ngày đêm:
Thức ăn đưa vào cơ thể:
Protein
56,8 g
237 Kcal
Lipid
140 g
1307 Kcal
Glucid
79,98 g
335 Kcal
Tổng cộng
1879 Kcal
Năng lượng cơ thể toả ra:
Năng lượng cơ thể tỏa ra xung quanh
1374 Kcal
Năng lượng cơ thể tỏa ra qua khí thải
43 Kcal
Phân và nước tiểu
23 Kcal
Nhiệt lượng bốc hơi qua hô hấp
181 Kcal
Nhiệt lượng bốc hơi qua da
227 Kcal
Các số hiệu chính khác
31 Kcal
Tổng cộng
1879 Kcal
Hiện nay người ta qui ước chia nhiệt lượng sinh ra trên cơ thể ở một thời điểm cho trước làm hai loại: nhiệt lượng sơ cấp và nhiệt lượng thứ cấp. Nhiệt lượng sơ cấp sinh ra do kết qủa sự phân tán nhiệt lượng tất nhiên trong qúa trình trao đổi vật chất vì những phản ứng hoá học xảy ra không thuận nghịch. Nhiệt lượng nầy phát ra tức thời sau khi cơ thể hấp thụ oxy và thức ăn.
Năng lương trong qúa trình oxy hóa thức ăn có gần 50% được dự trữ lại trong các liên kết giàu năng lượng (ATP). Khi các liên kết này đứt chúng giải phóng năng lượng để thực hiện một công nào đó; Nhiệt lượng giải phóng này gọi là nhiệt lượng thứ cấp.
Ở điều kiện bình thường, trong cơ thể có sự cân bằng giữa hai loại nhiệt lượng. Khi nhiệt lượng sơ cấp giảm sẽ làm tăng nhiệt lượng thứ cấp và ngược lại. Tuy nhiên tỉ lệ của hai loạn nhiệt lượng này có thể thay đổi theo những nguyên nhân sau:
a) Với các qúa trình hoạt động sống bình thường, năng lượng dự trữ vào các liên kết giàu năng lượng chiếm khỏng 50 %. Với các qúa trình bệnh lý thì phần năng lượng do cơ thể tỏa ra ở dạng nhiệt lượng so cấp sẽ chiếm phần lớn vì lúc đó mức độ tạo liên kết giàu năng lượng giảm xuống.
b) Tỷ lệ trên phụ thuộc vào cường độ tỏa nhiệt và cường độ sinh nhiệt. Khi tăng sự tỏa nhiệt cơ thể cần tăng nhiệt độ tức là tăng sự sinh nhiệt, và dẫn tới sự bảo toàn nhiệt độ cho cơ thể. Ví dụ như môi trường bị lạnh hơn nhiệt độ cơ thể, phản ứng men trong cơ thể tạo sự co cơ, kích thích sự giải phóng nhiệt lượng từ năng lượng thứ cấp dự trữ. Tuy nhiên một số động vật ngủ động đã duy trì nhiệt độ cơ thể bằng cách tiêu dần lượng mỡ dự trữ trong cơ thể.
***&&&***
1. Ði lên đỉnh núi cao, người ta sẽ thấy trọng lượng cơ thể:
a) nặng hơn bình thường.
b) nhẹ hơn bình thường.
c) ở trạng thái không trọng lượng.
d) không thay đổi.
2. Nếu tính chính xác gia tốc trọng trường phụ thuộc vào độ cao; nơi nào trong những nơi sau đây có gia tốc trọng trường lớn nhất:
a) Cà Mau.
b) Huế.
c) TP Hồ Chí Minh.
d) Cần Thơ.
3. Muốn quá trình tiêu hóa thức ăn được tốt:
a) khi ăn ta nên nằm và ngướïc cổ lên cao.
b) khi ăn ta nhai nhỏ thức ăn và nên dùng thêm nước canh.
c) khi ăn ta có thể đứng hay ngồi cho thoải mái.
d) câu a và câu b là đúng.
e) câu b và câu c là đúng.
4. Chỉ ra một lời khuyên sai:
a) Nên ngủ trên đệm để giảm áp lực cơ thể.
b) Ðứng quá lâu, ngồi quá lâu đều làm cho cơ bị mỏi.
c) Khi ngủ nên gối đầu lên tay để bảo vệ hệ thần kinh.
d) Khi nằm nên luân phiên thay đổi vị trí tiếp xúc của lưng và mặt gường.
5. Lực căng cơ có bản chất là :
a) Giống lực đàn hồi của lò xo.
b) Giống lực ma sát của các dây bị căng khi đặt tiếp xúc nhau.
c) Giống như trọng lực.
d) Giống như lực quán tính.
6. Chỉ ra một câu đúng:
a) Khi đi qua những nơi trơn trợt cần làm giảm độ ma sát của bàn chân và mặt đường.
b) lực ma sát của máu với thành động mạch tăng lên khi máu giảm vận tốc.
c) Luôn có sự ma sát của các luồn khí khi mà nó chuyển động trong khí quản.
d) Ma sát của thức ăn khi di chuyển trong ruột là ma sát trượt.
7. Công suất hoạt động của một cơ thể sống:
a) Tăng lên khi mà lực căng cơ tăng lên.
b) Tăng lên khi vận tốc thực hiện lực tác dụng tăng.
c) Tỷ lệ với lực căng cơ và vận tốc thực hiện lực tác dụng.
d) Tỷ lệ với khối lượng của cơ thể.
8. Công của lực căng cơ:
a) bằng 0,45 độ lớn lực co cơ cực đại nhân với độ biến thiên chiều dài cơ.
b) bằng 0,45 độ lớn lực co cơ nhân với chiều dài cơ.
c) bằng độ lớn lực co cơ cực đại nhân với độ biến thiên chiều dài cơ.
d) bằng độ lớn lực co cơ cực đại nhân với chiều dài cơ di chuyển.
9. Trong sự co cơ:
a) Có một phần năng lượng cơ thể sinh ra chuyển hóa thành nhiệt lượng.
b) Năng lượng cơ thể bỏ ra cho sự co cơ gấp ba, bốn lần công làm co cơ.
c) Có 1,6. 10-2 J mà cơ thể cần tạo ra để chuyển hóa thành nhiệt cho 1kg cơ thể trong mỗi giây để tạo sự co cơ.
d) Tất cả các ý trên đều đúng.
10. Khi cơ thực hiện công:
a) Năng lượng được cung cấp chủ yếu do ATP trong máu.
b) Năng lượng được cung cấp chủ yếu do sự tổng hợp ATP tại cơ.
c) Năng lượng được cung cấp chủ yếu do cơ thể tạo ra lượng acid lactat đủ lớn.
d) Câu a và b đều đúng.
e) Câu b và c đều đúng.
11. Công trong qúa trình hô hấp:
a) bằng áp suất hô hấp nhân với độ biến đổi thể tích không khí mỗi lần thở.
b) ở trạng thái tĩnh với sự thông khí khoảng 10 lần trong phút, thì công cơ thể phải tốn là 1 đến 5 Joule.
c) khi làm việc nặng hoặc chạy nhanh thì công của lực hô hấp sẽ tăng lên.
d) các câu trên đều đúng.
e) các câu trên đều sai.
12. Năng lượng tim:
a) có công suất trung bình khoảng 100 W.
b) có công suất trung bình khoảng 13 W.
c) có công suất trung bình khoảng 1,35 W.
d) có công suất trung bình khoảng 50 W.
13. Sự suy tim là :
a) khi công tạo trương lực T tăng thì công tạo áp suất P đẩy máu đi sẽ giảm.
b) sự tăng quá trình oxy hoá glucose.
c) sự tăng quá trình tạo ra nhiều sản phẩm acid lactat.
d) sự giảm ATP do thiếu Pospolipid.
e) tất cả các ý trên.
14. khi một bệnh nhân bị sốt thì nhiệt độ cơ thể có thể đạt đến:
a) 314 K b) 320 R
c) 1040 F d) 400 C
e) Tất cả các nhiệt độ trên là như nhau.
15. Khi nhiệt độ cơ thể tăng lên khá cao, phần nào trong các phần sau đây sẽ giãn nở nhiều nhất:
a) Hệ xương. b) Hệ cơ
c) Các mô mở. d) Các dung dịch trong cơ thể.
e) Không khí trong khí quản.
16. Ởí lứa tuổi nào thì cơ thể có thể tạo ra hiệu suất công khi co cơ là lớn nhất:
a) từ 10 đến 15 tuổi. b) từ 15 đến 25 tuổi.
c) từ 25 đến 30 tuổi. d) từ 35 đến 45 tuổi.
17. Năng lượng cơ thể khi sinh công tạo ra trực tiếp từ:
a) ADP. b) Glucose.
c) Acid lactat. d) Máu.
e) Nước.
18. Luyện tập có thể giúp cho cơ thể:
a) Tăng hiệu suất của công khi co cơ.
b) Tạo ra sự sinh công nhỏ nhất khi hô hấp.
c) Mau chóng đạt được độ căng hoặc giảm cơ theo mong muốn.
d) Ðiều chỉnh mức độ ma sát thích hợp khi sử dụng các công cụ lao động.
e) Tất cả các ý trên.
19. Khi chuyển 100 cal thành công hoàn toàn, cơ thể tạo ra một công là:
a) 418 KJ b) 24 KJ
c) 0,42 KJ d) 24 J.
20. Khí có hai nguyên tử liên kết gắn chắt và tham gia dao động theo ba chiều trong không gian sẽ có số bậc tự do là:
a) i= 5/2 b) i= 3/2
d) i=11/2 d) i= 8/2
21. Cơ thể không thể thực hiện việc tăng nhiệt độ lên đến 600 C vì:
a) qúa trình đồng hóa thức ăn không thực hiên được ở nhiệt độ đó.
b) phản ứng men trong cơ thể tạo sự co cơ không thực hiên được ở nhiệt độ đó.
c) các protein cấu tạo nên cơ bấp đã bị phân hủy ở nhiệt độ đó.
d) Không phải do các nguyên nhân trên.
Ong Co Van Ong Co Van Doc
Tác giả: Hữu Mai
Lời giới thiệu
TRƯỚC KHI VÀO CHUYỆN
NGƯỜI BỊ BẮT
TRẠI TÒA KHÂM
THÁNG TÁM ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
[3] Légion: đơn vị lính người nước ngoài mang quốc tịch Pháp. Chương 4
THÁNH PHÊ-RÔ
BỘ NÃO CỦA CHẾ ĐỘ
DINH ĐỘC LẬP
2. Sáng ngày 7-5-1963[2] tại Huế, tổng giám mục Ngô Đình Thục đi viếng nhà thờ La Vang trở về. Dọc đường, ngồi trong xe ô tô, đức cha thấy cờ Phật tung bay rợp trời thành phố Huế. Đức cha xẵng giọng: – Ai cho phép treo cờ thế ni? Người lái xe đáp: – Trình Đức cha, bữa ni là ngày Phật Đản. – Phật Đản cũng không được phép! Cờ tôn giáo phải treo có nơi có chốn. Nhà dân chỉ được phép treo quốc kỳ. Ở châu Âu, toàn dân theo đạo Thiên chúa, người ta đâu có treo cờ Vatican ! Ngô Đình Thục rất muốn đưa đạo Thiên chúa thành quốc đạo, trở về xứ Huế, cha nhiều lúc không vui, vì 90% dân cố đô đều theo đạo Phật. Khi đó cha còn chưa biết ngày 6 vừa qua, Phủ tổng thống đã có điện cho các nơi cấm dân chúng treo cờ tôn giáo. Sáng sớm ngày 7, tỉnh trưởng Thừa Thiên lật đật tới Phú Cam trình ông Cậu về bức công điện cấm treo cờ tôn giáo của Phủ tổng thống mới tới chiều hôm trước. Văn phòng cố vấn không nhận được bức điện này. Bức điện chỉ tới tòa đại biểu và tỉnh đường Thừa Thiên. Tỉnh trưởng nói: – Dân chúng xôn xao lắm. Nhà nào cũng đã treo cờ. Ông Cậu cho cách giải quyết thế nào? Cẩn ngồi thừ người, rồi hỏi: – Các thầy bên chùa Từ Đàm biết chưa? – Dân chúng còn biết thì các thầy phải biết. Nhân viên ở tỉnh đường hầu hết đều là người theo đạo Phật. Tỉnh trưởng còn chưa biết trong lúc y ngồi đây, cảnh sát theo tinh thần bức điện của Phủ tổng thống, đã đi một số nơi đòi hạ cờ, có nơi gặp sự phản ứng mạnh của đồng bào, cảnh sát đã tự tay kéo cờ xuống rồi ném vào nhà. Để tập họp thêm lực lượng, từ lâu Cần đã kết thân với những người lãnh đạo Phật giáo miền Trung ở ngay tại Huế như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh… Điều này làm Ngô Đình Thục bực bội, và trở thành mối bất hòa lớn giữa hai người. Cẩn xem kỹ bức điện, rồi lẩm bẩm: – Lạ thiệt! Lạ thiệt!… Nếu định mần sao không mần từ trước, ngày 6 mới điện! Lịnh cấm treo cờ tôn giáo, nhưng người ta sẽ nghĩ là cấm treo cờ Phật trong ngày Phật Đản. Cuối cùng Cẩn quyết định: – Hỏi vô Phủ tổng thống, có đúng là lịnh như rứa không. Nếư đúng, thì xin hoãn thi hành một đôi ngày. Đồng bào đã trót treo cờ rồi thì cứ để đó như mọi năm, không đụng vô… Ngô Đình Thục về tới Tòa tổng giám mục, mới biết Phủ tổng thống đã có lệnh cấm treo cờ. Thục lập tức cho gọi Hồ Đắc Khương, đại biểu chính phủ ở miền Trung. Khi được hỏi, Khương trình bày lại ý kiến của ông Cậu. Thục đỏ mặt nói: – Lịnh của tổng thống mà không thi hành, rứa còn chi là phép nước! Anh về nói với ông Cậu như vậy. – Trình Đức cha, sáng nay cảnh sát đã tới một số nơi đề nghị cất cờ, đồng bào phản ứng rất mạnh. Tình hình ngoài phố rất găng. Ông Cậu đang xin ý kiến của Phủ tổng thống. Nếu bắt hạ cờ, nhất định Phật tử sẽ biểu tình. – Mấy thằng tỉnh trưởng, trưởng ty ăn hại à? Lực lượng cảnh sát, an ninh, dã chiến, vùng chiến thuật để mô? Mới có tí rứa không mần được thì mần cái chi? Cứ chạy theo mấy thầy trọc đầu, có ngày mất nước. Anh cứ về nói với ông Út ý kiến của tui. Hồ Đắc Khương sợ hãi quay về tìm Cẩn. Cẩn cũng đang lo lắng, vì văn phòng của Cẩn báo cáo, trong Phật tử lan truyền tin cảnh sát xé cờ Phật, đồng bào rất phấn nộ, cho là chính quyền sắp ra tay đàn áp. Cẩn đã ra lệnh cho tỉnh trưởng phải dùng xe thông tin thông báo ngay với đồng bào là không có gì thay đổi, cứ treo cờ như mọi năm. Khương nói lại với Cẩn những ý kiến của Thục. Cẩn rầu rĩ: – Làm như rứa, tui còn mặt mũi nào với mấy thầy bên Từ Đàm. Hồi lâu, Cẩn nói: – Vì miềng còn xin hỏi lại ý kiến Phủ tổng thống, cứ tạm để như rứa đã. Thầy ra ngoài đó, cố thu xếp mọi chuyện cho êm đẹp… Xẩm tối ngày hôm đó, khá đông đồng bào theo đạo Phật do những thượng tọa, đại đức dẫn đầu, kéo tới tỉnh đường phản đối lệnh cấm treo cờ và hành vi xé cờ của cảnh sát, để chuẩn bị cho cuộc rước kiệu và làm lễ Phật Đản ở chùa Từ Đàm vào ngày hôm sau. Chỉ tới khi tỉnh trưởng đồng ý dùng xe thông tin gắn máy phóng thanh với những Phật tử ngồi trên, đi thông báo khắp thành phố lễ Phật Đản sẽ tiến hành bình thường trong ngày mai, các nhà sư và Phật tử mới chịu giải tán. Suốt ngày 8, lễ Phật Đản tiến hành không xảy ra chuyện gì, trừ bài thuyết giảng của thượng tọa Thích Trí Quang trong buổi lễ, tố cáo sự kỳ thị và bất bình đẳng của chính quyền đối với tôn giáo. Cẩn ngồi nhà cho người theo dõi, rất buồn phiền vì bài thuyết pháp của thầy Trí Quang, biết rằng nay mai sẽ phải gánh chịu những búa rìu của hai ông anh, nhưng cũng tạm yên tâm vì ngày lễ Phật Đản đã trôi qua êm ả. Lúc 7 giờ 30 tối, Phật tử ùn ùn kéo về đài phát thanh Huế để nghe chương trình đặc biệt về lễ Phật Đản. Những người lãnh đạo Phật giáo yêu cầu cho phát thanh bài thuyết giảng của thầy Trí Quang, không được xếp trong chương trình. Quản đốc Đài phát thanh không chấp nhận. Những nhà sư trẻ xông vào trong đài đấu tranh. Cuộc đấu tranh giằng co mỗi lúc một sôi động. Quản đốc báo cáo với tỉnh đường và ty cảnh sát. Đài phát thanh sắp bị chiếm. Chính quyền tại Thừa Thiên đã có chuẩn bị. Viên thiếu tá phó tỉnh trưởng, phụ trách nội an, cầm đầu một đại đội thiết giáp, một đại đội cơ giới, ba đại đội bộ binh và một số hiến binh quân cảnh, tiến vào giải tỏa đài phát thanh. Đồng bào phẫn nộ, la ó phản đối, gọi tên của viên thiếu tá phó tỉnh trưởng mặc áo giáp đứng trên xe chỉ huy thóa mạ, và dùng gạch đá ném bọn binh lính tới đàn áp. Viên thiếu tá ra lệnh dùng súng và lựu đạn hơi để giải tán đám đông. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang, trong đó có một tiếng nổ cực mạnh. Kết quả 8 người chết và 14 người bị thương. Một số người chết không toàn thây, thân hình bay đi mỗi nơi một mảnh. Vụ Phật giáo năm 1963 chỉ mới bắt đầu.
4. Tại Huế, dưới áp lực của Ngô Đình Thục, chính quyền ở tỉnh tiếp tục sử dụng sức mạnh. Chùa Từ Đàm, trung tâm của phong trào Phật giáo miền Trung, bị cảnh sát vũ trang dựng hàng rào dây thép gai bao vây, cấm cả người ra, người vào. Chúng cắt nguồn tiếp tế lương thực, và cắt luôn nguồn điện, nguồn nước. Ở một số chùa, các nhà sư tuyệt thực để phản đối. Sinh viên Huế vào cuộc, biểu tình. Cảnh sát được lệnh đàn áp. Lần này không có người chết, nhưng số người bị thương cũng lên tới hàng chục. Trong khi Diệm vẫn còn lúng túng sắp xếp người vào một ủy ban liên bộ, thay mặt chính phủ tiến hành đàm phán với ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo, Nhu vẫn đứng ngoài lề; thì Lệ Xuân lại như mọi lần, có ngay những phản ứng cấp thời. Ngày 5 tháng 6, Lệ Xuân nhân danh chủ tịch phong trào Phụ nữ liên đới, triệu tập hội nghị ban chấp hành và đưa ra một bản thông cáo đề cập tới tình hình Phật giáo. Bản thông cáo do chính Lệ Xuân thảo, với lời mở đầu: “Xét rằng, toàn dân Việt Nam dầu thuộc tôn giáo nào vẫn tôn trọng giáo lý đạo Phật và luôn luôn tôn kính Đức Phật tổ, một bậc đại thánh hiền. Vì lẽ đó, một số người Việt đã tự nhận mình là Phật tử, mặc dù đa số không theo môn phái nào, mà chỉ thành tâm và hồn nhiên thi hành đức từ bi”. Nhân danh phụ nữ Việt Nam, bản thông báo “thành khẩn yêu cầu những vị tăng ni chân chánh tránh tuyệt thực với dụng ý công kích đả phá, vì như vậy tức là phản lại giáo lý của Đức Phật đã dạy, nên kiềm chế những đòi hỏi của thể xác như sự đói bằng cách không thỏa mãn nó để đạt đến Niết bàn”, yêu cầu quý vị tăng ni “giữ thái độ bình tĩnh trước hành động của những kẻ núp sau bóng từ bi để gây rối loạn, lột mặt nạ của những kẻ có hành động phá hoại nhằm mục đích làm giảm uy tín của Phật giáo và khuynh đảo quốc gia do sự xúi giục của ngoại bang”, và “yêu cầu chính phủ ra lệnh trục xuất những người ngoại quốc gây rối”. Lúc đầu, Diệm không đồng ý cho phổ biến bản thông cáo. Trước những lời thuyết gia của Lệ Xuân, Diệm đồng ý cho phổ biến trong phạm vi hẹp. Nhưng khi bản thông cáo xuất hiện, thì tất cả các báo chí đều đăng lại. Giới Phật giáo phản ứng mạnh mẽ. Các tăng ni coi đây là những lời thóa mạ, xúc phạm nặng nề của bà em dâu tổng thống. Năm ngày sau, tại một nơi đông người ở Sài Gòn, ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng, diễn ra vụ tự thiêu đầu tiên. Một nhà sư cao tuổi, thượng tọa Thích Quảng Đức, thanh thản bước xuống khỏi xe ô tô, ngồi chắp tay, chân xếp bằng theo kiểu nhà Phật, để một nhà sư khác mặc áo cà sa vàng đổ xăng vào người và châm lửa. Ngọn lửa bùng cháy, ngùn ngụt bốc cao từ cây đuốc sống, trong lúc nhà sư vẫn ngồi tĩnh tọa như Đức Phật trên tòa sen, giữa những tiếng tụng kinh râm ran hòa với tiếng khóc nức nở của đệ tử đứng vây quanh. Bức ảnh thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo được phát đi gây sự chấn động không riêng trong nước mà còn khắp nhiều miền trên thế giới. Hơn 70 vạn Phật tử và người dân Sài Gòn đi theo đám tang của nhà sư. Ngay chiều hôm đó, Diệm đưa ra lời hiệu triệu quốc dân: “Sự hòa giải đang tiến hành tốt đẹp thì, sớm nay, do sự tuyên truyền quá khích che giấu sự thật, gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ, khiến một số người bị đầu độc gây một vụ án mạng oan uổng làm tôi rất đau lòng”. Diệm cố gắng thúc đẩy ủy ban liên bộ đàm phán với ủy ban liên phái Phật giáo nhanh chóng đi tới một sự thỏa thuận để làm dịu tình hình. Ngày 6 tháng 6, bản thông cáo chung giữa đôi bên được ký kết. Kết quả cuộc đàm phán khá tốt đẹp. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam ký khán bên dưới. Khi ủy ban liên bộ đưa trình tổng thống để báo cáo và lấy chữ ký, Diệm chỉ phân vân không biết mình nên ký vào đâu. Một quốc trưởng không thể đứng ngang hàng với một hòa thượng! Trước băn khoăn của Diệm, bộ trưởng Bộ nội vụ và Nhu đang có mặt ở văn phòng Phủ tổng thống, cũng không biết nên giải quyết thế nào. Cuối cùng, Diệm bảo: – Cho mời bà Nhu xem bà ấy có ý kiến nào không. Được hỏi ý kiến, Lệ Xuân nói: – Có gì đâu mà khó khăn! Hai bên đã ký cả rồi, ông cụ Tịnh Khiết cũng đã ký khán, thì tổng thống ký ở ngoài lề như là bút phê vậy. Bản thông cáo dược phổ biến tức thời và rộng rãi khắp nơi. Nhưng cuộc đấu tranh của Phật giáo không phải vì vậy mà lắng xuống. Hơn một trăm tăng ni biểu tình trước tòa đại sứ Mỹ, yêu cầu chính phủ Mỹ và các nước tự do phải dùng áp lực với chính quyền Việt Nam cộng hòa thực thi đúng đắn bản thông cáo. Và sau đó, một số tăng ni lại kéo về chùa Xá Lợi mở đầu một cuộc tuyệt thực…
CUỘC HỌP GIA ĐÌNH
GIỮA HAI DÒNG NƯỚC
Bài 5. Cách Thức Vận Động, Phát Triển Của Sự Vật Và Hiện Tượng Bai 5 Cach Thuc Van Dong Phat Trien Cua Su Vat Va Hien Tuong Doc
Mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan đều có mặt chất và mặt lượng thống nhất với nhau.
? Em hãy chỉ ra những thuộc tính cơ bản của cái cố?
Cái cốc: màu?; hình?; chất liệu?; dùng để làm gì?. Nếu để uống nước thì thuộc tính cơ bản là uống nước; nếu để cắm hoa thì thuộc tính cơ bản là căm hoa.
? Em hãy chỉ ra những thuộc tính cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa?
Xã hội chủ nghĩa có những thuộc tính cơ bản (công hữu; không còn áp bức bóc lột, làm theo năng lực…)
Như vậy tổng hợp các thuộc tính này quy định bản chất của cái côcs và của xã hội chủ nghĩa.
? Theo em việc phân biệt giữa thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản mạng tính tuyệt đối hay tương đối? cho ví dụ?
? Em hãy lấy ví dụ thể hiện lượng?
Nước gồm 2 nguyên tử H; 1 nguyên tử O
? Theo em sự phân biệt giữa chất và lượng mang tính tương đối hay tuyệt đối?
? Theo em việc tăng hoặc giảm nhiệt độ của nước diễn ra như thế nào?
? Theo em mọi sự biến đổi về lượng có dẫn đến sự biến đổi về chất ngay hay không?
? Em hãy lấy ví dụ nói lên độ?
Khi sự biến đổi về lượng đạt đến một giới hạn nhất định thì phá vỡ sự thống nhất giữa chất và lượng thì chất mới ra đời được gọi là nút.
? Em hãy lấy ví dụ thể hiện nút?
? Em hãy chỉ ra cách thức biến đổi của lượng?
? Em hãy lấy ví dụ chất mới ra đời lại bao hàm một lượng mới tương ứng?
? Em hãy chỉ ra cách thức biến đổi của chất?
? Thông qua bài học này các em rút ra những bài học gì cho bản thân?
– Khái niệm: Chất dùng để chỉ những thuộc tính cơ bản vốn có của sự vật hiện tượng, tiêu biểu cho sự vật hiện tượng đó, phân biệt nó với các sự vật hiện tượng khác.
+ Mỗi sự vật hiện tượng đều có nhiều thuộc tính nhưng chỉ có thuộc tính cơ bản mới quy định bản chất của sự vật hiện tượng.
+ Việc phân biệt giữa thuộc tính cơ bản và không cơ bản chỉ mang tính tương đối.
– Khái niệm: dung để chỉ những thuộc tính cơ bản vốn có của sự vật hiện tượng, biểu thị trình độ phát triển (cao-thấp) quy mô (lớn – nhỏ) tốc độ vận động (nhanh – chậm) số lượng (ít-nhiều)…của sự vật hiện tượng.
– Chú ý: sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính chất tương đối.
3. Quan hệ giữa sự biến đổi về lượng và sự biến đổi về chất.
a. Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.
– Ví dụ 1: Trong điều kiện bình thường nước ở trạng thái lỏng, nếu tăng nhiệt độ lên 100 0 C chuyển sang thể hơi và nếu còn 0 0 C thì chuyển sang thể rắn.
VD: ranh giới tồn tại của nước ở lỏng là:
– Nút : là điểm giới hạn mà tại đó sự biến đổi về lượng làm thay đổi về chất cuả SVHT.
– Cách thức biến đổi của lượng.
+ Lượng biến đổi trước và biến đổi dần dần.
+ Sự biến đổi về chất bắt đầu từ lượng.
b. Chất mới ra đời lại bao hàm một lượng mới tương ứng.
Ví dụ: 1 học sinh sau 10 tháng học lên lớp 11 chất mới là: một lượng kiến thức mới, thời gian học, chiều cao, cân nặng, tính cách…
– Cách thức biến đổi của chất
+ Chất biến đổi sau, nhanh
+ Chất mới ra đời lại hình thành một lượng mới phù hợp với nó.
– Trong học tập và rèn luyện phải kiên trì, nhẫn lại, không coi thường việc nhỏ.
– Tránh nóng vội, đốt cháy giai đoạn, hoạt động nửa vời.
Giáo Trình Marketing Căn Bản Ts Nguyễn Thượng Thái Chuong 1 Nhung Van De Co Ban
Published on
1. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MARKETING MỤC TIÊU Sau khi học xong chương này, sinh viên cần nắm được các vấn đề sau: * Các định nghĩa về Marketing * Bản chất của Marketing * Vai trò, chức năng của Marketing * Mối quan hệ của chức năng Marketing với các chức năng khác trong doanh nghiệp. * Các quan điểm quản trị Marketing * Những vấn đề cơ bản trong “Quản trị Marketing” 1.1. KHÁI NIỆM VỀ MARKETING 1.1.1. Định nghĩa, bản chất và phạm vi của Marketing Hoạt động Marketing diễn ra hàng ngày xung quanh chúng ta. Nhiều khi bản thân chúng ta thực hiện các hoạt động Marketing, hay tham gia vào các hoạt động đó nhưng chúng ta không nhận thấy rằng chúng ta thực hiện hoạt động Marketing. Vậy Marketing là gì? 1) Marketing theo nghiã rộng Marketing thường được xem như hoạt động của các doanh nghiệp. Nhưng thực ra hoạt động Marketing không chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Bất kỳ khi nào người ta muốn thuyết phục ai đó làm một điều gì, thì khi đó các chủ thể đã thực hiện hoạt động Marketing. Đó có thể là Chính quyền thuyết phục dân chúng thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, một đảng chính trị thuyết phục cử tri bỏ phiếu cho ứng cử viên của mình vào ghế Tổng thống, một doanh nghiệp thuyết phục khách hàng mua sản phẩm, hay bản thân bạn thuyết phục các đồng nghiệp, bạn bè thực hiện một ý tưởng mới của mình… Như vậy, hoạt động Marketing xảy ra trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đối với các doanh nghiệp, các tổ chức phi lợi nhuận cũng như cơ quan Đảng, Nhà nước. Theo quan niệm rộng này của Marketing, chúng ta thấy các chủ thể thực hiện hoạt động Marketing (người thực hiện Marketing-Marketer) rất đa dạng, đối tượng được Marketing (sản phẩm-product) cũng rất khác nhau, và đối tượng tiếp nhận sản phẩm (khách hàng- customer) cũng rất đa dạng. Ngoài doanh nghiệp, chủ thể thực hiện Marketing có thể là một đảng chính trị, một tổ chức phi lợi nhuận, một trường đại học, một nghiệp đoàn, một nhà thờ, hay một cá nhân. Đối tượng được Marketing (sản phẩm) không chỉ là hàng hoá, một dịch vụ, mà còn là các ý tưởng (giảm tai nạn giao Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 12
3. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing Marketing theo định nghĩa này có các hàm ý quan trọng sau đây: * Marketing là một triết lý kinh doanh mới, triết lý vì khách hàng. Đồng thời, để đảm bảo các hoạt động Marketing, trong tổ chức cần có một chức năng quản trị mới – chức năng quản trị Marketing. * Chức năng quản trị Marketing của tổ chức nhằm đảm bảo cho toàn bộ các hoạt động của tổ chức phải hướng tới khách hàng. Muốn vậy, tổ chức phải xác định đúng được nhu cầu và mong muốn của khách hàng và thoả mãn các nhu cầu đó một cách hiệu quả * Doanh nghiệp thu được lợi nhuận thông qua thoả mãn nhu cầu của khách hàng. * Marketing nhằm đáp ứng các mục tiêu của doanh nghiệp trong dài hạn. Cũng có thể nói, Marketing là quá trình làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, được thực hiện bằng cách: * Phối hợp các bộ phận chức năng khác nhau trong doanh nghiệp * Nhằm trọng tâm vào “Khách hàng mục tiêu” * Thông qua việc sử dụng “Các mục tiêu, chiến lược và kế hoạch Marketing” được thực hiện bằng “Hỗn hợp Marketing 4P * “. Hỗn hợp Marketing 4P (Marketing mix 4P) là gì? Đó là bốn công cụ Marketing trong tầm tay mà một doanh nghiệp có thể sử dụng để tác động vào thị trường nhằm nhận được những đáp ứng mong muốn từ thị trường mục tiêu. Hỗn hợp Marketing 4P gồm 4 thành tố: Sản phẩm Sản phẩm là phương tiện mà công ty dùng để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Sản phẩm có thể là hàng hoá hữu hình, dịch vụ vô hình. Để khách hàng phân biệt được, sản phẩm phải có nhãn hiệu và phải được đóng gói. Giá cả Giá cả là số tiền khách hàng phải bỏ ra để có được sản phầm. Khách hàng mua nhiều có thể được giảm giá. Khách quen có thể được giá ưu đãi. Phương thức thanh toán tiện lợi, linh hoạt cũng giúp cho khách hàng mua nhiều. Phân phối Phân phối là các hoạt động nhằm chuyển sản phẩm đến tay khách hàng mục tiêu. Nếu doanh nghiệp tổ chức kênh phân phối tốt sẽ tăng khả năng tiêu thụ, đồng thời tiết kiệm được chi phí, và như vậy tăng được khả năng cạnh tranh. Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 14
5. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing Để có thể đơn giản hoá nội dung các hoạt động Marketing, chúng ta đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Marketing làm gì. Câu trả lời khá đơn giản. Nó mang đúng sản phẩm, đến đúng khách hàng, ở đúng nơi họ cần, đúng thời điểm, với đúng giá, sử dụng các công cụ truyền thông phù hợp với khách hàng mục tiêu. 5) Tính hai mặt của Marketing Một mặt, Marketing mang tính khoa học. Nó sử dụng tất cả các thành tựu của các môn khoa học khác như tâm lý học, kinh tế học, toán học, thống kê học, tin học. Marketing lý giải, phân tích các hiện tượng, xu thế trên thị trường. Doanh nghiệp thực hiện hoạt động Marketing theo chiến lược và kế hoạch được lập ra. Mặt khác, Marketing mang tính nghệ thuật, thể hiện ở chỗ người làm công tác Marketing cần có khả năng cảm nhận trước những biến động của thị trường, khả năng sáng tạo. Marketing phải phản ứng linh hoạt với thị trường, ứng phó với sự thay đổi không lường trước được của môi trường kinh doanh (Xem hình 1.1). Mặc dù không được học về lý luận Marketing trong trường lớp, nhưng các nhà kinh doanh tự do nhiều khi rất thành công trên thương trường. Đó là do họ có những tư chất quan trọng của một nhà kinh doanh như: khả năng nhạy cảm, tính quyết đoán, chấp nhận rủi ro, khả năng giao tiếp thuyết phục… Họ thiên về sử dụng tính nghệ thuật của Marketing. Ngoài ra, họ biết tích luỹ được nhiều kinh nghiệm qua những lần thất bại. Họ cũng biết học tập kinh nghiêm những người thành đạt khác. Họ là những người được đề cập đến trong câu thành ngữ : “Có chí làm quan, có gan làm giàu”. Thực ra, họ cũng học Marketing, nhưng học qua kinh nghiệm, qua thực hành trong cuộc sống. Hình 1.1. Tính hai mặt của Marketing Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n Tính khoa học Tính nghệ thuật * Phân tích * Lý giải * Định lượng * Có kế hoạch * Cảm nhận * Sáng tạo * Định tính * Phản ứng với thị trường 16
6. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing 1.1.2. Nhu cầu, mong muốn, cầu thị trường Chúng ta đã thấy Marketing hiện đại hướng tới thoả mãn nhu cầu của thị trường, vì nhu cầu chính là động lực thôi thúc con người hành động nói chung và mua hàng nói riêng. Vậy nhu cầu là gì? Muốn hiểu rõ chúng ta cần phân loại các nhu cầu: 1) Nhu cầu tự nhiên Nhu cầu tự nhiên, hay nhu cầu con người (human need) là nhu cầu được hình thành khi con người cảm thấy thiếu thốn một cái gì đó. Nhà kinh tế học Maslow đã phân loại nhu cầu tự nhiên của con người thành 5 bậc khác nhau (xem hình 1.2.) Nhu cầu tự nhiên là vốn có đối với con người. Marketing chỉ phát hiện ra các nhu cầu tự nhiên của con người chứ không tạo ra nó. 2) Mong muốn Mong muốn là nhu cầu tự nhiên có dạng đặc thù, cụ thể. Mỗi cá nhân có cách riêng để thoả mãn mong muốn của mình tuỳ theo nhận thức, tính cách, văn hoá của họ. Ví dụ: Đói là nhu cầu tự nhiên. Nhu cầu này được đáp ứng bằng các cách khác nhau đối với các khách hàng khác nhau. Người thì muốn ăn cơm, người thì muốn ăn phở, người thì ăn bánh mỳ, người thì ăn mèn mén… Cùng là cơm, người thì ăn cơm bụi bình dân, người thì muốn vào nhà hàng sang trọng. Cùng là nhu cầu thông tin, người thì dùng máy di động nhãn hiệu Noikia hoặc Motorola, người thì dùng nhắn tin kết hợp điện thoại thẻ. Hình 1.5. Thang bậc nhu cầu của Maslow Hiểu biết nhu cầu tự nhiên của khách hàng thôi thì chưa đủ. Người làm Marketing còn phải nắm được mong muốn của họ để tạo ra các sản phẩm đặc thù có tính cạnh tranh giúp doanh nghiệp thắng lợi. Ai cũng biết là con người có nhu cầu ăn để tồn tại, nhưng các nhà kinh doanh ăn uống khác nhau tạo ra vô vàn các loại thực phẩm khác nhau, các cách thức phục vụ khác nhau để đáp ứng các mong muốn khác Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 17 Nhu cầu tự nhiên (ăn, uống, thở, duy trì nòi giống…) Nhu cầu an toàn (được bảo vệ, yên ổn…) Nhu cầu xã hội (tình cảm, giao lưu…) Nhu cầu được tôn trọng Nhu cầu tự khẳng định mình
7. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing nhau của khách hàng. Giao lưu cũng là một nhu cầu tự nhiên của con người. Các nhà kinh doanh Bưu chính Viễn thông (BCVT) đã tạo ra vô vàn các dịch vụ khác nhau để đáp ứng các mong muốn giao lưu gián tiếp khác nhau của khách hàng. Đáp ứng các mong muốn của các nhóm khách hàng khác nhau sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng được khả năng cạnh tranh, đồng thời mang lại cho xã hội nhiều loại sản phẩm, dịch vụ khác nhau cùng thoả mãn một nhu cầu tự nhiên của con người. Tuy nhiên, xác định đúng mong muốn của khách hàng không phải là công việc dễ dàng, vì nhiều khi ngay cả bản thân khách hàng cũng không biết rõ là mình mong muốn gì. Do vậy, bản thân doanh nghiệp cũng phải gợi mở mong muốn đang tiềm ẩn trong mỗi con người. Ai cũng muốn được tôn trọng, tự tin. Nhưng không ai biết là muốn tự tin thì phải dùng kem đánh răng “Close up”, hay phải nhai kẹo cao su để “tập thể dục mặt”. Bằng các sản phẩm này, các công ty sản xuất kem đánh răng và kẹo cao su đã giúp khách hàng thoả mãn nhu cầu được tôn trọng, tự tin. 3) Nhu cầu có khả năng thanh toán Nhu cầu có khả năng thanh toán là nhu cầu tự nhiên và mong muốn phù hợp với khả năng tài chính của khách hàng. Nếu không có gì trở ngại đối với hành vi mua, như chưa có sẵn để bán, bán không đúng lúc, đúng chỗ… thì nhu cầu có khả năng thanh toán sẽ chuyển thành quyết định mua. Nhu cầu có khả năng thanh toán còn được các nhà kinh tế gọi là cầu của thị trường (Demand). Có thể nói, nếu doanh nghiệp chăm sóc khách hàng tốt thì sẽ loại bỏ nhiều trở ngại, rào cản đối với hành vi mua và giúp khách hàng chuyển từ nhu cầu có khả năng thanh toán thành quyết định mua. Nhu cầu có khả năng thanh toán là nhu cầu mà doanh nghiệp cần quan tâm trước hết, vì đây chính là cơ hội kinh doanh cần phải nắm bắt và đáp ứng kịp thời. Cơ hội kinh doanh không dành cho riêng ai. Trong điều kiện thị trường ngày càng được tự do hoá, thì nhu cầu có khả năng thanh toán chưa được thoả mãn sẽ kích thích các đối thủ cạnh tranh tham gia thị trường. Trên thị trường Việt Nam hiện nay còn rất nhiều nhu cầu có khả năng thanh toán nhưng chưa được thoả mãn. Đây chính là cơ hội lớn cho các nhà kinh doanh. Thị trường hàng hóa tiêu dùng Việt Nam còn có rất nhiều nhu cầu chưa được thoả mãn. Đây không chỉ là cơ hội kinh doanh của riêng của doanh nghiệp Việt Nam nào. Nếu doanh nghiệp nào không đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu đó, thì các đối thủ cạnh tranh sẵn sàng thay thế. Đối với thị trường Việt Nam, khả năng thanh toán là vấn đề rất quan trọng. Do vậy, sản phẩm phải vừa túi tiền của người tiêu dùng. Có thể thấy rằng, mặc dầu nhiều loại hàng hoá Trung Quốc chất lượng chưa cao, nhưng vẫn được khách hàng Việt Nam mua dùng. Lý do cơ bản là giá cả các hàng hoá Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 18
8. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing đó vừa với túi tiền cuả đông đảo khách hàng Việt Nam, đặc biệt là ở nông thôn. 4) Các mức độ khác nhau của cầu và nhiệm vụ Marketing a) Cầu âm Cầu âm là cầu trong thị trường mà phần lớn khách hàng không thích sản phẩm được mời chào. Nhiệm vụ của Marketing là nghiên cứu tìm nguyên nhân vì sao khách hàng không thích sản phẩm. Trên cơ sở đó cần phải thiết kế lại 4 thành tố của chương trình Marketing – mix để thu hút khách hàng. b) Không có cầu Đây là trường hợp khi khách hàng mục tiêu thờ ơ không quan tâm đến sản phẩm được mời chào. Trong trường hợp này, nhiệm vụ của Marketing là thông qua các chương trình xúc tiến để làm cho khách hàng thấy được rằng sản phẩm sẽ đáp ứng nhu cầu nào đó của họ. c) Cầu tiềm tàng Là cầu chưa được thoả mãn. Trên thị trường luôn luôn có các mức cầu chưa được thoả mãn. Nhiệm vụ của Marketing là phát hiện và đánh giá quy mô của thị trường và tạo ra các sản phẩm thoả mãn các mức cầu đó. d) Cầu suy giảm Là cầu đang giảm dần. Nhiệm vụ của Marketing là phải xác định rõ nguyên nhân suy giảm và đề ra các chính sách, chiến lược mở rộng cầu bằng cách tìm các thị trường mục tiêu mới, hoặc thay đổi các nội dung của 4 thành tố trong chương trình Marketing mix. Cầu về sữa trẻ em ở các nước phát triển đang giảm dần do dân chúng ngày càng “lười” sinh con. e) Cầu không đều theo thời gian Đó là cầu thay đổi theo thời gian (giờ trong ngày, ngày trong tuần, tuần trong tháng, tháng trong năm…). Cầu không ổn định làm cho tổ chức lúc thì dư thừa khả năng cung cấp, lúc thì quá tải công việc. Nhiệm vụ của Marketing là tìm cách dàn đều mức cầu thông qua chiến lược giá linh hoạt, chiến lược xúc tiến và các chính sách khuyến khích khác. Cầu đối với các dịch vụ bưu chính viễn thông thuộc loại không đều theo thời gian. f) Cầu đầy đủ Đây là trường hợp khi tổ chức hài lòng với lượng cầu đang có. Nhiệm vụ của Marketing là duy trì mức độ cầu hiện có nhằm phòng tránh tình huống cầu sụt giảm do cạnh tranh tăng lên cũng như sự thay đổi sở thích, thị hiếu của khách hàng. Doanh nghiệp cần phải thường xuyên đo lường mức độ hài lòng của khách hàng để kịp thời điều chỉnh chương trình Marketing mix. Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 19
10. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing ta nói một giao dịch đã được thực hiện. Giao dịch là một trao đổi giá trị giữa hai bên, là đơn vị đo lường cơ bản của trao đổi. Một giao dịch bao gồm các điều kiện sau: có ít nhất 2 thứ có giá trị để giao dịch; có các điều kiện giao dịch được thoả thuận; có thời gian giao dịch thoả thuận; và địa điểm giao dịch thoả thuận. Những thoả thuận này có thể được thể hiện trong cam kết, hay trong hợp đồng ký kết giữa 2 bên. Hệ thống pháp luật của quốc gia, hay quốc tế là căn cứ pháp lý để 2 bên thực hiện các cam kết trong giao dịch. Marketing dựa trên cơ sở các giao dịch riêng biệt được gọi là Marketing giao dịch (Transaction Marketing). Tuy nhiên, do cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, các doanh nghiệp mang muốn xây dựng mối quan hệ lâu dài, tin cậy với khách hàng, với các nhà phân phối, các nhà cung cấp trên cơ sở 2 bên cùng có lợi (win – win). Như vậy, Marketing chuyển dịch từ mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trên mỗi giao dịch riêng biệt sang mục tiêu tối đa hoá mối quan hệ cùng có lợi với các đối tác khác. Nguyên tắc hành động là, hãy xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa các đối tác, thì sau đó các giao dịch có lợi nhuận sẽ đến. Từ đó, chúng ta có khái niệm Marketing quan hệ, hay mạng lưới Marketing. Mạng lưới Marketing bao gồm công ty và các nhà cung cấp, các nhà phân phối, và khách hàng có mục tiêu xây dựng mối quan hệ tin cậy, cùng có lợi và vững chắc giữa các bên. 1.1.4. Thị trường, sản phẩm 1) Thị trường Theo quan điểm Marketing, thị trường bao gồm con người hay tổ chức có cùng nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn các nhu cầu mong muốn đó (xem hình 1.3.). Theo định nghĩa này, chúng ta cần quan tâm đến con người và tổ chức có cùng nhu cầu, mong muốn, có khả năng tham gia trao đổi. Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 21 Thị trường Có nhu cầu, mong muốn Có nhu cầu, mong muốn Sẵn sàng trao đổi Sẵn sàng trao đổi Có khả năng tham gia Có khả năng tham gia Hình 1.3. Định nghĩa thị trường
12. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing nghiệp. Cũng có thể dùng một thuật ngữ tương đương là doanh nghiệp định hướng Marketing. Khi khách hàng hài lòng, họ sẽ mua nhiều hơn. Công ty có thể dễ dàng bán được thêm các sản phẩm khác. Khách hàng hài lòng sẽ quảng bá tốt về công ty và sản phẩm. Họ cũng sẽ ít chú ý hơn đến các sản phẩm cạnh tranh và ít nhạy cảm về giá. Doanh nghiệp cũng giảm được chi phí khi phục vụ khách hàng quen. Doanh nghiệp hướng về khách hàng phải luôn luôn tìm tòi, lắng nghe, phát hiện và giải quyết vấn đề của khách hàng, chứ không chỉ đơn thuần là bán các sản phẩm riêng biệt. Họ cung cấp cho khách hàng một giải pháp để giải quyết vấn đề của khách hàng hơn là bán các sản phẩm riêng biệt. Trong doanh nghiệp hướng về khách hàng, mọi quyết định kinh doanh đều phải xuất phát trước hết từ thị trường. Việc tăng giảm giá, đưa sản phẩm mới ra thị trường, lựa chọn phương tiện, nội dung quảng… đều căn cứ vào tình hình cạnh tranh, vào khách hàng. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp phải thường xuyên đo lường đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng để có căn cứ điều chỉnh các chiến lược chính sách Marketing (xem chương 2: Nghiên cứu Marketing). 1.2. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA MARKETING 1.2.1. Hoàn cảnh ra đời Marketing ra đời trong nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu. Xuất phát từ nước Mỹ, sau đó được truyền bá dần dần sang các nước khác. Việt Nam đã tiếp nhận và đưa vào giảng dạy môn học Marketing tại các trường học vào cuối những năm 80 khi nền kinh tế đang chuyển sang cơ chế thị trường. Hiện nay, Marketing là một môn học bắt buộc trong các chương trình ngành Quản trị kinh doanh. Marketing là quá trình tổng kết thực tiễn sản xuất kinh doanh trong môi trường cạnh tranh và dần dần được khái quát hoá và nâng lên thành lý luận khoa học. Do quá trình sản xuất hàng hoá phát triển, từ chỗ lao động thủ công đến lao động cơ giới hoá, sản xuất hàng loạt lớn, lượng hàng hoá cung cấp ngày càng nhiều dẫn tới vượt nhu cầu của thị trường. Mặt khác, mối quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng ngày càng xa do xuất hiện các trung gian phân phối khi quy mô sản xuất ngày càng lớn. Do vậy, người sản xuất ngày càng ít hiểu được mong muốn của khách hàng. Đây là những nguyên nhân căn bản dẫn tới hàng hoá sản xuất ra không bán được vì không đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hoàn cảnh này buộc các nhà sản xuất phải tìm tòi các phương pháp khác nhau để tiêu thụ hàng hoá. Mỗi khi phương pháp cũ không giải quyết được vấn đề đặt ra thì lại xuất hiện phương pháp mới thay thế. Do vậy, nội dung, phương pháp và tư duy kinh doanh cũng biến đổi để thích nghi với môi trường kinh doanh Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 23
13. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing mới. Từ tư duy kinh doanh “Bán những cái mình có sẵn” trong điều kiện cung nhỏ hơn cầu, các doanh nghiệp phải chuyển dần sang tư duy “Bán cái mà khách hàng cần” khi cung vượt cầu và cạnh tranh gia tăng. Đó chính là tư duy kinh doanh Marketing, tư duy hướng về khách hàng. Để thực hiện được tư duy “Bán cái mà khách hàng cần” thì nhà sản xuất phải hiểu rất rõ khách hàng của mình qua công tác nghiên cứu thị trường. Do vậy, doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động Marketing ở tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất, từ khi nghiên cứu thị trường để nắm bắt nhu cầu cho đến cả sau khi bán hàng. Marketing đầu tiên được áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa tiêu dùng, rồi sau đó chuyển sang các doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp. Và trong thập kỷ gần đây, Marketing đã xâm nhập vào các ngành dịch vụ và phi thương mại. Từ chỗ chỉ bó hẹp trong lĩnh vực kinh doanh trong giai đoạn đầu, sau đó Marketing còn xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực khác như chính trị, đào tạo, văn hoá-xã hội, thể thao, âm nhạc, du lịch… Ngày nay, nhiều trường đại học quốc tế thực hiện hàng loạt các chương trình truyền thông tại Việt Nam để thu hút sinh viên Việt Nam theo học. Thậm chí, các chương trình “Sinh đẻ có kế hoạch” cũng cần đến sự hỗ trợ của Marketing nếu muốn thuyết phục được công chúng thực hiện. Người ta phải tìm hiểu rõ các nhóm công chúng khác nhau để nắm được nhu cầu mong muốn của họ. Trên cơ sở đó, các chuyên gia vạch ra nội dung của chương trình truyền thông sao cho thuyết phục được công chúng tin theo. Có thể nói, Marketing vừa là một triết lý hay một tư duy kinh doanh mới, lấy sự hài lòng của khách hàng làm mục tiêu tồn tại lâu dài; vừa là một chức năng quản trị mới trong doanh nghiệp : chức năng quản trị Marketing. 1.2.2. Quá trình tiến triển của tư duy kinh doanh Marketing hình thành và phát triển gắn liền với quá trình tiến triển các quan điểm, tư duy kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng ta sẽ tìm hiểu các quan điểm kinh doanh khác nhau trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới, qua đó thấy được vị trí của tư duy Marketing – tư duy kinh doanh hướng về khách hàng. Có thể tóm tắt năm quan điểm kinh doanh lớn sau đây: 1) Quan điểm hướng về sản xuất Quan điểm hướng về sản xuất cho rằng khách hàng sẽ ưa thích nhiều sản phẩm với giá phải chăng được bán rộng rãi. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải mở rộng quy mô sản xuất và mở rộng phạm vi phân phối, bán hàng. Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 24 Phát hiện nhu cầuPhát hiện nhu cầu Sản xuất ra sản phẩmSản xuất ra sản phẩm BánBán Dịch vụ hậu mãiDịch vụ hậu mãi
16. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing Có thể nói, Marketing là một tư duy kinh doanh mới, tư duy hướng tới khách hàng, lấy khách hàng làm mục tiêu tồn tại. Để thực hiện tư duy này cần phải có một tổ chức đảm nhiệm các hoạt động Marketing trong doanh nghiệp. Do vậy, xuất hiện một chức năng mới là chức năng Quản trị Marketing như các chức năng khác: Quản trị nhân sự, Quản trị tài chính – kế toán, Quản trị sản xuất… Định hướng bán hàng Định hướng Marketing Điểm xuất phát * Nhà máy * Thị trường mục tiêu * Sản xuất trước rồi mới tìm cách bán * Tìm hiểu nhu cầu rồi mới sản xuất và bán Định hướng nỗ lực * Chú trọng nhu cầu của người bán * Doanh số * Kế hoạch ngắn hạn * Chú trọng nhu cầu của người mua * Khả năng thu lợi * Kế hoạch dài hạn Các công cụ sử dụng * Kích thích mua nhiều nhờ các nỗ lực thương mại * Chiến lược tổng hợp Marketing hỗn hợp Mục tiêu * Tăng lợi nhuận nhờ tăng doanh số * Tăng lợi nhuận nhờ đáp ứng nhu cầu khách hàng Hình 1.4. So sánh giữa hai quan điểm Marketing và bán hàng Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở Việt Nam, Marketing không có chỗ đứng. Kinh tế quốc doanh có vị trí tuyệt đối cả về quy mô và vị thế. Nhưng các doanh nghiệp nhà nước không có động lực áp dụng Marketing, vì họ không cần khách hàng. Còn các thành phần kinh tế hợp tác xã và tư nhân thì nhỏ bé, manh mún. Do vậy, họ cũng chỉ chú trọng tới khâu bán hàng mà thôi. Từ khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường thì bắt đầu nảy sinh nhu cầu tìm hiểu, học tập và vận dụng Marketing vào thực tiễn kinh doanh. Vào cuối những năm tám mươi và đầu những năm chín mươi, Marketing bắt đầu được đưa vào giảng dạy tại các trường đại học Việt Nam. Tuy nhiên, mãi đến gần đây, và đặc biệt là từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO thì Marketing mới được áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước vốn đã trải qua nhiều năm kinh doanh trong môi trường độc quyền. Trong một công ty hướng về khách hàng, Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành có kiến thức cơ bản là Marketing chứ không phải là kiến thức công nghệ. Dĩ nhiên là không phải một sớm, một chiều mà một công ty có thể chuyển ngay sang định hướng Marketing. Để đánh giá mức độ định hướng Marketing của một công Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 27
18. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing không chỉ bó hẹp ở người tiêu dùng, mà cả cộng đồng xã hội, trong dó có công nhân viên của công ty. Một nhà máy bột ngọt sản xuất ra sản phẩm tốt, giá cả phù hợp, nhưng nếu chất thải của nhà máy gây ô nhiễm môi trường, và điều kiện làm việc của công nhân tồi tàn, thì công chúng địa phương phản đối, công nhân nhà máy cũng phản đối. Do vậy, nhà máy phải giành một phần lợi nhuận để chống ô nhiễm môi trường, cải tạo điều kiện làm việc cho công nhân, và có thể tạo điều kiện công ăn việc làm cho con em địa phương. Nhà máy cũng phải tham gia vào các hoạt động từ thiện, văn hoá xã hội của địa phương nói riêng, và của xã hội nói chung. 1.3. VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA MARKETING TRONG DOANH NGHIỆP 1.3.1. Vai trò, chức năng của Marketing 1) Vai trò của Marketing Marketing có vai trò là cầu nối trung gian giữa hoạt động của doanh nghiệp và thị trường, đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp hướng đến thị trường, lấy thị trường làm mục tiêu kinh doanh. Nói cách khác, Marketing có nhiệm vụ tạo ra khách hàng cho doanh nghiệp. Sử dụng Marketing trong công tác kế lập hoạch kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp thực hiện phương châm kế hoạch phải xuất phát từ thị trường. Đây là sự khác biệt cơ bản về chất của công tác kế hoạch trong kinh tế thị trường so với công tác kế hoạch trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Trong điều kiện cạnh trạnh trên thị trường gay gắt thì chỉ có doanh nghiệp nào biết hướng đến thị trường thì mới có khả năng tồn tại. 2) Chức năng cơ bản của Marketing Bộ phận Marketing cần phải trả lời bốn vấn đề cơ bản sau của doanh nghiệp: * Ai là khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp? Họ có các đặc điểm gì? Nhu cầu, mong muốn của họ như thế nào? (Hiểu rõ khách hàng) * Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp có tác động tích cực, tiêu cực như thế nào đến doanh nghiệp? (Hiểu rõ môi trường kinh doanh). * Các đối thủ nào đang cạnh tranh với doanh nghiệp? Họ mạnh yếu như thế nào so với doanh nghiệp? (Hiểu rõ đối thủ cạnh tranh) * Doanh nghiệp sử dụng các chiến lược Marketing hỗn hợp gì để tác động tới khách hàng? (Sản phẩm, giá cả, kênh phân phối, xúc tiến – Marketing mix). Đây là vũ khí chủ động trong tay của doanh nghiệp để “tấn công” vào thị trường mục tiêu. Như vậy, có thể nói muốn kinh doanh thành công, doanh nghiệp phải hiểu rõ mình, hiểu rõ đối phương, hiểu rõ khách hàng, hiểu thiên rõ thiên thời, địa lợi (điều Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 29
19. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing kiện môi trường). Từ đó công ty mới có thể xây dựng nên chiến lược Marketing hướng tới thị trường. Đây là các chức năng riêng có của Marketing mà các chức năng khác trong doanh nghiệp không thực hiện được. Do vậy, chức năng Marketing mang tính độc lập tương đối với các chức năng quản trị khác trong công ty. Tuy nhiên, để thực hiện các hoạt động của mình, bộ phận Marketing cần được sự hỗ trợ phối hợp chặt chẽ của các chức năng khác trong doanh nghiệp. 1.3.2. Mối quan hệ của Marketing với các chức năng khác Trong một doanh nghiệp có nhiều chức năng. Đó là: * Chức năng quản trị tài chính- kế toán * Chức năng quản trị nguồn nhân lực * Chức năng quản trị sản xuất * Chức năng quản trị Marketing * Chức năng nghiên cứu-phát triển… Hình 1.6 mô tả mối quan hệ giữa chức năng Mareketing và các chức năng khác trong công ty, trong đó chức năng Marketing là cầu nối giữa thị trường và doanh nghiệp thông qua các chức năng khác. Vậy mối quan hệ giữa các chức năng này như thế nào? Marketing có thể đứng riêng rẽ để tạo ra khách hàng cho doanh nghiệp được không? Câu trả lời là muốn thực hiện được mục tiêu của mình thì Marketing phải biết phối hợp với các chức năng khác để tạo ra sức mạnh tổng hợp. Lý do đơn giản là muốn thực hiện chiến lược của mình Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 30 Hình 1.6. Mối quan hệ giữa chức năng Marketing và các chức năng khác Tài chính – kế toán Nghiên cứu – phát triển Nhân sự Sản xuất Marketing Marketing Marketing Marketing THỊ TRƯỜN G THỊ TRƯỜN G
20. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing thì các nhà quản trị Marketing phải có các nguồn lực như tài chính, nhân lực, công nghệ, thiết bị sản xuất…, tức là phải biết phối hợp với các chức năng khác trong doanh nghiệp để tạo ra sức mạnh tổng hợp hướng tới thị trường. Như vậy, Marketing vừa có các chức năng độc lập, vừa phải phối hợp với các chức năng khác trong doanh nghiệp để thực hiện được mục tiêu đặt ra. Chức năng Marketing có mối liên hệ thống nhất hữu cơ với các chức năng khác. Từ đó người ta đưa ra khái niệm “Marketing phối hợp” (Coordinated Marketing). Marketing phối hợp thể hiện ở 2 phương diện. Thứ nhất, các chức năng Marketing khác nhau như nghiên cứu Marketing, xúc tiến, bán hàng, chăm sóc khách hàng, quản trị sản phẩm… phải được phối hợp chặt chẽ với nhau để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Thứ hai, Marketing phải phối hợp chặt chẽ với các chức năng khác trong công ty. Vì vậy, để thực hiện triết lý Marketing, công ty phải tiến hành cả Marketing bên trong (Internal Marketing) và Marketing bên ngoài (External Marketing). Mục tiêu của Marketing bên trong là làm cho khách hàng bên trong hài lòng. Mục tiêu của Marketing bên ngoài là đáp ứng nhu cầu của khách hàng bên ngoài. Khách hàng bên trong là toàn bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Khách hàng bên ngoài là những người bên ngoài doanh nghiệp cần đến các sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Marketing bên trong phải đi trước Marketing bên ngoài, tức là trước hết phải làm cho khách hàng bên trong hài lòng rồi thì công ty mới có tiền đề để làm cho khách hàng bên ngoài hài lòng. Bất kỳ ai trong một doanh nghiệp cũng đều có khách hàng, và ai cũng phải cón nhiệm vụ làm cho khách hàng hài lòng. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để cho doanh nghiệp thực hiện tư duy hướng về khách hàng. Có thể nói Marketing vừa là một tư duy kinh doanh mới – tư duy hướng về khách hàng, đồng thời vừa là một chức năng quan trọng trong công ty – chức năng kết nối thị trường với công ty, đảm bảo cho công ty thực hiện tư duy hướng về khách hàng. Trong điều kiện kinh tế thị trường có thể nói Marketing là chìa khoá của sự thành công cho doanh nghiệp. 1.4. QUẢN TRỊ MARKETING 1.4.1. Thế nào là quản trị Marketing? Như đã trình bày trong mục 1.1 ở trên, Marketing vừa là một tư duy kinh doanh mới hướng tới khách hàng, vừa là một chức năng mới, mang tính đặc thù trong doanh nghiệp. Cũng như các chức năng khác trong doanh nghiệp, để đạt được mục tiêu đặt ra, hoạt động Marketing cần phải được quản trị. Vậy quản trị Marketing là gì? Theo chuyên gia Marketing Ph. Kotler: Quản trị Marketing là quá trình phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra việc thi hành các biện pháp nhằm thiết lập, củng cố và duy trì những cuộc trao đổi có lợi với người mua được lựa chọn để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 31
23. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing a) Phân tích các cơ hội thị trường Quá trình phân tích các cơ hội thị trường bao gồm hai bước là phát hiện thị trường mới và đánh giá khả năng cuả thị trường. – Phát hiện thị trường mới Trước khi bước vào thị trường mới, một công ty phải nghiên cứu thị trường đó kỹ càng để phát hiện ra những khả năng kinh doanh phù hợp với năng lực của mình. Nếu công ty đã có vị trí trên thị trường rồi, họ cũng tìm các cơ hội kinh doanh mới để tạo ra một vị thế an toàn, vì thị trường luôn luôn biến đổi. Có thể nói, trên thị trường luôn luôn có các cơ hội kinh doanh. Vấn đề là ở cho doanh nghiệp có kịp thời phát hiện ra hay không, và cơ hội đó có phù hợp với năng lực của doanh nghiệp hay không? – Đánh giá khả năng thị trường của công ty Trên thị trường luôn có các cơ hội kinh doanh khác nhau. Vấn đề là các cơ hội đó có phù hợp với công ty hay không, tức là công ty có khả năng tham gia thị trường với ưu thế cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh hay không… Nói cách khác, công ty phải xem xét đến mục tiêu và tiềm năng cuả công ty. Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 34 KhôngCơ hội thị trường có phù hợp với mục tiêu của công ty không? Cơ hội thị trường có phù hợp với mục tiêu của công ty không? Cơ hội thị trường có phù hợp với tiềm năng của Công ty không? Cơ hội thị trường có phù hợp với tiềm năng của Công ty không? Mục tiêu 1Mục tiêu 1 Mục tiêu 2Mục tiêu 2 Mục tiêu 3Mục tiêu 3 Đủ vốn ?Đủ vốn ? Đủ mạng lưới PP? Đủ mạng lưới PP? Đủ nhân lực?Đủ nhân lực? Chuyển sang giai đoạn tiếp theo Chuyển sang giai đoạn tiếp theo Vay vốn?Vay vốn? Hợp tác ?Hợp tác ? Hợp tác ?Hợp tác ? Loại bỏ cơ hội này Loại bỏ cơ hội này Không Không Không Không Không KhôngCó Có Có Có Có Có Có Có Có Kg Kg Kg Hình 1.10. Phân tích các cơ hội thị trường
24. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing Các nguồn thông tin nghiên cứu thị trường rất đa dạng (xem chương “Nghiên cứu Marketing”). Có thể dùng ma trận sản phẩm thị trường (Ma trận Ansoffe) để phát hiện ra các cơ hội kinh doanh mới (xem chương “Chiến lược sản phẩm”). Chúng ta thử tìm hiểu xem xung quanh khu vực một trường đại học mới mở có thể có các cơ hội kinh doanh gì và cơ hội nào phù hợp với nhà kinh doanh sinh viên? Hay khi một đất nước theo đạo Hồi tiến hành chính sách giải phóng phụ nữ thì các nhà kinh doanh sẽ có những cơ hội kinh doanh gì mới? b) Phân đọan thị trường. Lựa chọn thị trường mục tiêu Sau khi phân tích cơ hội thị trường, công ty phải lựa chọn thị trường mục tiêu, tức là công ty có thể nhằm vào đối tượng khách hàng nào hấp dẫn nhất để phục vụ thì thuận lợi nhất cho công ty: phục vụ tất cả các khách hàng trên tất cả các địa bàn, hay chọn một nhóm hoặc một số nhóm khách hàng nào? Trước khi chọn thị trường mục tiêu, công ty cần phân đoạn thị truờng, tức là chia khách hàng thành các nhóm khác biệt về nhu cầu, tính cách hay hành vi. Thị trường mục tiêu có thể bao gồm một hoặc một vài đoạn thị trường. Sau đó công ty phải định vị sản phẩm trên thị trường mục tiêu đã được chọn, tức là đảm bảo cho sản phẩm dự kiến tung ra thị trường có các đặc tính gì khác biệt với các sản phẩm cạnh tranh và phù hợp với mong muốn của khách hàng mục tiêu. Làm được như vậy công ty sẽ tăng được khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. c) Xây dựng chiến lược Marketing Mọi công ty đều phải hoạt động có định hướng, có mục tiêu rõ ràng. Muốn vậy, công ty phải đặt ra mục tiêu và cách thức để đạt được mục tiêu đó. Công cụ để thực hiện là kế hoạch chiến lược và kế hoạch Marketing. Mỗi công ty có thể có một vài lĩnh vực hoạt động. Mỗi lĩnh vực hoạt động có những mặt hàng khác nhau. Tập đoàn Viettel Việt Nam có ba lĩnh vực kinh doanh: các Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 35
26. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing e) Tổ chức thực hiện, và kiểm tra các nỗ lực Marketing Để tổ chức thực hiện các hoạt động Marketing công ty cần phải có bộ máy tương ứng. Đó là hệ thống bộ máy tổ chức Marketing. Đối với các công ty nhỏ, bộ máy tổ chức Marketing có thể chỉ do một vài người đảm nhiệm tất cả các hoạt động Marketing như nghiên cứu Marketing, tổ chức tiêu thụ, tổ chức truyền thông Marketing, cung cấp các dịch vụ khách hàng… Đối với các công ty lớn, người ta phải xây dựng một bộ máy tổ chức marketing có quy củ. Tổ chức, thực hiện và kiểm tra các nỗ lực Marketing là bước cuối cùng trong quá trình quản trị Marketing. Để thực hiện các kế hoạch Marketing, công ty cần phải thiết lập một bộ máy Marketing. Đứng đầu bộ phận Marketing là giám đốc Marketing. Nhiệm vụ thứ nhất của giám đốc Marketing là phối hợp công việc của tất cả các nhân lực làm trong lĩnh vực Marketing. Do phải quản lý các cấp dưới, giám đốc Marketing phải thực hiện chức năng quản trị nhân sự như tuyển chọn, đào tạo, bố trí công việc, đánh giá kết quả công việc của nhân viên, thúc đẩy họ nỗ lực làm việc. Nhiệm vụ thứ hai của giám đốc Marketing là phải làm việc với các giám đốc của các bộ phận chức năng khác, nhằm phối hợp chặt chẽ chức năng Marketing với các chức năng khác nhau trong công ty để huy động tổng hợp mọi nguồn lực của doanh nghiệp cho việc thực hiện tốt các mục tiêu đặt ra. Kiểm tra, đánh giá và so sánh kết quả thực hiện kế hoạch Marketing với mục tiêu đề ra sẽ giúp cho giám đốc Marketing có căn cứ để ra các quyết định điều chỉnh. Có thể sử dụng 3 loại kiểm tra: kiểm tra hàng năm; kiểm tra lợi nhuận; và kiểm tra chiến lược. Kiểm tra hàng năm giúp cho giám đốc Marketing biết được mục tiêu bán hàng, lợi nhuận và các mục tiêu khác được thực hiện như thế nào. Đầu tiên, giám đốc Marketing cần phải xác định và công bố các mục tiêu trong kế hoạch hàng năm cho từng tháng, từng quý. Thứ hai, giám đốc Marketing phải đo lường được mức độ thực hiện các mục tiêu cho mỗi thị trường. Thứ ba, giáo đốc Marketing phải xác định rõ các nguyên nhân dẫn đến khoảng cách giữa kết quả thực hiện và mục tiêu. Thứ tư, giám Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 37
29. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing e) Tổ chức bộ máy Marketing theo kiểu hỗn hợp sản phẩm – khách hàng Khi một công ty cung cấp nhiều sản phẩm khác nhau cho nhiều loại khách hàng khác nhau thì việc tổ chức theo sản phầm hay theo khách hàng sẽ gây khó khăn cho họ. Do vậy, trong trường hợp này công ty nên tổ chức theo mô hình kết hợp sản phẩm – khách hàng, tức là mô hình tương tự như mô hình tổ chức theo khách hàng, trong đó có người quản trị chung về khách hàng và các chuyên viên dưới quyền phụ trách các nhóm sản phẩm khác nhau. Cách tổ chức này kết hợp được ưu điểm của mô hình tổ chức theo sản phẩm và tổ chức theo khách hàng, đồng thời khắc phục được nhược điểm của cả hai mô hình tổ chức đó. Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 40
31. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing PHỤ LỤC 1 GIÁ TRỊ GIÀNH CHO KHÁCH HÀNG Giá trị giành cho khách hàng (dưới góc độ doanh nghiệp) hay kết quả nhận được từ sản phẩm dịch vụ (dưới góc độ khách hàng) là sự chênh lệch giữa tổng giá trị của khách hàng và tổng chi phí của khách hàng khi mua dịch vụ. Trong đó, tổng giá trị của khách hàng là toàn bộ những lợi ích mà khách hàng nhận được ở sản phẩm hay dịch vụ. Còn tổng chi phí của khách hàng là toàn bộ những hao phí, những phí tổn mà khách hàng phải bỏ ra để có được sản phẩm, dịch vụ (xem hình 1.15.). a) Tổng giá trị của khách hàng Tổng giá trị của khách hàng nhận được khi tiêu dùng sản phẩm dịch vụ không chỉ đơn giản là giá trị sản phẩm, dịch vụ, mà nó còn bao gồm cả giá trị nhân sự và giá trị hình ảnh. Giá trị sản phẩm và dịch vụ : Đó là tính hữu ích của sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định của khách hàng. Giá trị dịch vụ ở đây cũng bao gồm cả những dịch vụ kèm theo sản phẩm, và dịch vụ chính. Vì ngoài những sản phẩm hữu hình, dịch vụ cơ bản thì người mua cũng luôn quan tâm đến những dịch vụ bổ sung mà mình sẽ nhận được khi mua sản phẩm đó. Giá trị sản phẩm và giá trị dịch vụ đóng một vai trò quan trọng trong tổng giá trị của khách hàng. Đó là lý do để khách hàng chọn dùng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Giá trị nhân sự và giá trị hình ảnh: Khi người ta mua một sản phẩm hay sử dụng một dịch vụ nhất định, dù cho giá trị của Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 42 Tổng chi phí của khách hàng Tổng chi phí của khách hàng Giá trị sản phẩmGiá trị sản phẩm Giá trị dịch vụGiá trị dịch vụ Giá trị về nhân sựGiá trị về nhân sự Giá trị về hình ảnhGiá trị về hình ảnh Chi phí về tiềnChi phí về tiền Phí tổn về thời gianPhí tổn về thời gian Phí tổn về tinh thầnPhí tổn về tinh thần Phí tổn về công sứcPhí tổn về công sức Giá trị dành cho khách hàng Giá trị dành cho khách hàng Hình 1.15. Giá trị dành cho khách hàng Tổng giá trị giành cho khách hàng
32. Ch¬ng 1 Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ Marketing sản phẩm hay dịch vụ đó có một vai trò rất lớn trong việc tạo nên tổng giá trị cho khách hàng, nhưng đó không phải yếu tố duy nhất. Thật vậy, ấn tượng về nhân viên bán hàng hay cung cấp dịch vụ và hình ảnh về công ty cũng có ý nghĩa nhất định trong quyết định mua cũng như trong việc tạo sự hài lòng của khách hàng sau khi mua hay sử dụng dịch vụ. Riêng đối với dịch vụ, do quá trình tiêu dùng và cung cấp dịch vụ xảy ra đồng thời, yếu tố con người có vai trọ đặc biệt quan trọng, được xem là P5 trong Marketing hỗn hợp 7P đối với dịch vụ. Giá trị hình ảnh Cuối cùng, khách hàng rất hãnh diện khi biết rằng mình sắp hoặc đã mua sản phẩm hay sử dụng dịch vụ của một công ty có uy tín và hình ảnh tốt trên thị trường. Điều này có nghĩa là thương hiệu cũng mang lại một giá trị cao hơn cho khách hàng. Tuy nhiên, kết quả mà khách hàng nhận được không đơn giản là tổng giá trị mà khách hàng nhận được khi sử dụng sản phẩm dịch vụ. Muốn biết được kết quả này, ta phải xét tổng giá trị của khách hàng trong tương quan với tổng chi phí mà khách hàng phải bỏ ra để có được sản phẩm, dịch vụ. b) Tổng chi phí của khách hàng Tổng chi phí của khách hàng là toàn bộ những hao phí, những phí tổn mà khách hàng phải bỏ ra để có được sản phẩm, dịch vụ. Các hao phí này bao gồm chi phí về tiền, hao phí về thời gian, hao phí về sức lực và tinh thần. Chi phí về tiền: Khách hàng phải chi phí về tiền để nhận được sản phẩm, dịch vụ. Trong quá trình tiêu dùng, khách hàng cũng phải trả những khoản chi phí như bảo quản, sửa chữa, nhiên liệu… Chi phí về thời gian: Trong thời đại của chúng ta, thời gian là một tài sản quí giá của con người. Vì vậy, khi khách hàng tìm đến chúng ta, có nghĩa là họ đã chia cho chúng ta một phần tài sản của họ dù cho họ có mất chi phí về tiền bạc hay không. Chi phí về công sức: Để có thể mua được sản phẩm, khách hàng của chúng ta đã mất công sức tìm kiếm thông tin, đi lại giao dịch, thanh toán… Do vậy, chúng ta phải đáp lại công sức mà khách hàng đã bỏ ra để mua hàng cho chúng ta. Hao tổn về tinh thần : Làm cho khách hàng cảm thấy khó chịu, bực mình cũng có nghĩa là chúng ta đã gây nên hao tổn về tinh thần cho khách hàng, và vô hình chung chúng ta đã làm tăng tổng chi phí của khách hàng khi sử dụng dịch vụ của chúng ta. Giá trị thực tế mà chúng ta dành cho khách hàng chỉ có khi tổng giá trị họ nhận được lớn hơn tổng chi phí của họ. Trong trường hợp ngược lại, khách hàng nhận thấy tổng chi phí mà họ bỏ ra lớn hơn tổng giá trị mà họ nhận được khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ, thì mặc dù Gi¸o tr×nh Marketing c¨n b¶n 43
Bạn đang xem bài viết Van Dong Cua Co The trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!