Cập nhật thông tin chi tiết về Về Khái Niệm Tư Duy Phản Biện mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
VỀ KHÁI NIỆM TƯ DUY PHẢN BIỆN
RUSSELI BROOKER
PHẠM THỊ LY dịch
Tư duy phản biện là một quá trình tư duynhằm chất vấn các giả định hay giả thiết. Đó là cách để khẳng định rằng một nhận định nào đó là đúng hay sai, đôi khi đúng, hay có phần đúng. Nguồn gốc của khái niệm tư duy phản biện có thể tìm thấy trong tư tưởng của phương Tây đối với phương pháp tư duy theo lối Socrat của người Hy lạp cổ, còn ở phương Đông, là trong kinh Vệ đà của nhà Phật. Tư duy phản biện là thành tố quan trọng của mọi nghề nghiệp chuyên môn. Nó là một phần của quá trình giáo dục và ngày càng có tầm quan trọng đáng kể đối với sự tiến bộ của sinh viên thông qua đào tạo bậc đại học, tuy các nhà giáo dục vẫn còn tranh luận về ý nghĩa chính xác và tầm cỡ của vấn đề này.
Định nghĩa: Tư duy phản biện được miêu tả là “những suy nghĩ mang tính chất phản ánh có lý lẽ về việc tin vào điều gì hoặc làm điều gì”. Nó cũng được miêu tả là “tư duy về tư duy”. Trong phạm vi bộ khung khái niệm triết học của lý thuyết phản biện xã hội, tư duy phản biện thường được hiểu là sự gắn bó với thực tiễn xã hội và chính trị trong việc tham gia dân chủ, là ước muốn hình dung ra hay mở ra những quan điểm khác mà ta có thể lựa chọn; là ước muốn kết hợp những quan điểm mới hay những quan điểm cũ đã biến cải vào cách tư duy và hành động của chúng ta, cũng như ước muốn thúc đẩy khả năng phản biện nơi người khác.
Lịch sử và Từ nguyên học
Ý nghĩa
Tư duy phản biện làm rõ mục tiêu, khảo sát các giả định, nhận định về những giá trị tiềm ẩn bên trong, đánh giá các minh chứng, hoàn thành các hành động, và đánh giá các kết luận.
Tư duy phản biện là điều cốt lõi để trở thành một người đọc có trình độ hay một người viết thực sự có đẳng cấp. Trong mọi thuật ngữ chung nhất, tư duy phản biện được diễn tả là ” một cách để đưa ra mọi vấn đề của cuộc sống”
Kỹ năng
Các kỹ năng cốt lõi của Tư duy phản biện là quan sát, diễn giải, phân tích, suy luận, đánh giá, giải thích, và tri nhận tổng hợp. Có một mức độ đồng thuận đáng kể trong các chuyên gia về việc cho rằng một cá nhân hay một nhóm người có gắn bó với một tư duy phản biện mạnh mẽ thì sẽ hết sức chú trọng tới:
· Minh chứng qua quan sát
· Bối cảnh
· Những tiêu chí quan yếu và thiết thực để có một nhận định đúng
· Những phương pháp có thể áp dụng được hay kỹ thuật xây dựng nhận định
· Những cơ cấu lý thuyết có thể áp dụng được để hiểu những vấn đề và câu hỏi trong tầm tay
Ngoài việc sở hữu kỹ năng tư duy phản biện mạnh mẽ, người ta phải được chuẩn bị để sẵn sàng gắn việc giải quyết những vấn đề ấy với việc sử dụng những kỹ năng này. Tư duy phản biện vận dụng không chỉ tri thức về logic mà còn những tiêu chí trí tuệ khác như sự rõ ràng, đáng tin cậy, sự xác đáng, sự sâu sắc, tính thiết thực, chiều sâu và tầm rộng, cũng như sự quan yếu và tính công bằng.
Quá trình
Tư duy phản biện đòi hỏi những khả năng:
· Nhận ra vấn đề, tìm ra được những phương tiện khả thi để đáp ứng cho việc giải quyết những vấn đề đó
· Hiểu tầm quan trọng của ưu tiên hóa và trật tự ưu tiên trong việc giải quyết vấn đề
· Thu thập những thông tin thiết yếu và sắp xếp theo một trật tự nhất định
· Nhận ra những giả định và giá trị không được nêu rõ
· Lĩnh hội thấu đáo và dùng ngôn ngữ một cách rõ ràng, chính xác, sáng suốt
· Diễn giải các dữ liệu nhằm đánh giá các minh chứng và luận điểm
· Nhận thức được sự tồn tại (hay không tồn tại) của những mối quan hệ logic giữa các ý kiến, nhận định
· Rút ra những kết luận và khái quát hóa được đảm bảo
· Đưa những kết luận và khái quát hóa ấy ra kiểm nghiệm
· Xây dựng lại mô hình niềm tin của mình trên cơ sở những trải nghiệm rộng hơn
· Đưa ra những nhận định, đánh giá xác đáng về những điều cụ thể trong đời sống hàng ngày
Tóm lại:
“Tư duy phản biện là một nỗ lực nhất quán nhằm xem xét bất cứ niềm tin nào hay bất cứ hình thức tri thức nào dưới ánh sáng của các minh chứng hỗ trợ cho nó và những kết luận xa hơn mà nó nhắm tới.”
Những nguyên tắc và khuynh hướng
Ước muốn tự phê phán
Tư duy phản biện vừa là ý muốn vừa là khả năng có thể tự đánh giá những suy nghĩ của chính mình. Tư duy có thể bị phê phán vì người ta không có đủ những thông tin thiết yếu – thực ra thì những thông tin quan trọng có thể còn chưa được khám phá, hay thậm chí chưa thể biết được- hoặc là vì người ta đã suy luận không hợp lý, dùng những khái niệm không phù hợp, hay thất bại vì không lưu ý tới những ý nghĩa quan trọng bên trong. Tư duy người ta có thể không rõ ràng, thiếu chính xác, không sâu sắc, không thiết thực, chật hẹp, nông cạn, phi logic, hay tầm thường, do ngờ nghệch hay do không biết ứng dụng những kỹ năng tư duy đã học một cách phù hợp ….
Những suy nghĩ có cân nhắc
Trong khi dùng tư duy phản biện để giải quyết vấn đề và tìm ra những quyết định một cách có cân nhắc, người ta coi các minh chứng (cũng như những chứng cớ điều tra), bối cảnh của nhận định, những tiêu chí thiết yếu để tạo ra một nhận định đúng, những phương pháp hay kỹ thuật có thể áp dụng được để xây dựng các luận điểm, và những cấu trúc lý thuyết có thể ứng dụng để hiểu những vấn đề trong tầm tay. ….
Năng lực
Tư duy phản biện vận dụng không chỉ tri thức về logic (chính thức, hoặc thường thấy hơn, phi chính thức) mà còn những tiêu chí trí tuệ khác như sự rõ ràng, đáng tin cậy, sự xác đáng, sự sâu sắc, tính thiết thực, chiều sâu và tầm rộng, cũng như sự quan yếu và tính công bằng.
Thói quen hay đặc điểm của ý nghĩ
Thói quen tích cực của việc suy nghĩ biểu lộ đặc điểm của một người sẵn sàng cho tư duy phản biện bao gồm một khát vọng dũng cảm theo đuổi lẽ phải và các minh chứng làm căn cứ cho mọi nhận định bất kể nó sẽ dẫn đến đâu; một đầu óc cởi mở, một sự chú ý trước tới những hậu quả có thể xảy ra đối với một lựa chọn nào đó, một cách tiếp cận có hệ thống trong việc giải quyết vấn đề, một bản tính tò mò muốn biết đến ngọn đến nguồn mọi thứ, một đầu óc không định kiến và sự trưởng thành trong nhận định, cũng như tự tin về lẽ phải.
Tầm quan trọng
Tư duy phản biện được coi là quan trọng trong mọi lãnh vực khoa học là vì nó tạo điều kiện cho người ta phân tích, đánh giá, giải thích, và xây dựng lại những suy nghĩ của mình, bằng cách đó làm giảm rủi ro vận dụng, hay hành động, hay suy nghĩ với một niềm tin sai lầm. Tuy nhiên, ngay cả với những kiến thức về phương pháp đặt câu hỏi và lập luận logic, người ta vẫn có thể phạm sai lầm do thiếu năng lực vận dụng hay do những đặc điểm tính cách như tự coi cái tôi của mình là trung tâm vũ trụ. Tư duy phản biện bao hàm việc xác định rõ những định kiến, thiên vị, tuyên truyền, tự lừa dối, xuyên tạc, và những thông tin sai lạc.v.v. Với những kết quả nghiên cứu trong tâm lý học tri nhận, một số nhà giáo dục tin rằng nhà trường cần phải tập trung vào việc dạy cho sinh viên những kỹ năng về tư duy phản biện và nuôi dưỡng trong họ những phẩm chất cốt lõi của hoạt động trí tuệ.
Trong nhà trường
John Dewey chỉ là một trong nhiều nhà lãnh đạo giáo dục đã nhận ra rằng một chương trình đào tạo nhằm vào việc xây dựng kỹ năng tư duy sẽ có lợi không chỉ cho người học mà là cho cả cộng đồng và toàn xã hội.
Điểm mấu chốt để thấy tầm quan trọng của tư duy phản biện trong khoa học là hiểu rõ tầm quan trọng lớn lao của tư duy phản biện trong việc học tập. Có hai ý nghĩa đối với việc học tập. Ý nghĩa thứ nhất xuất hiện khi người học lần đầu tiên xây dựng trong tâm trí mình những ý tưởng cơ bản, những nguyên tắc và lý thuyết cố hữu về nội dung. Đây là quá trình nội tại hóa. Ý nghĩa thứ hai nảy sinh khi người học sử dụng những ý tưởng, nguyên tắc và lý thuyết ấy một cách hữu hiệu vì nó đã trở thành thiết yếu trong đời họ. Đó là quá trình ứng dụng. Thầy giáo giỏi sẽ nuôi dưỡng tư duy phản biện cho học sinh trong mọi giai đoạn của việc học kể cả giai đoạn khởi sự. Quá trình gắn kết trí tuệ này là trọng tâm của hoạt động trợ giảng tại những trường như Oxford, Duham, Cambridge và London School of Economics. Người trợ giảng đặt câu hỏi với sinh viên theo cách của triết gia Socrat. Điều trọng yếu ở đây là, người thầy vun đắp tư duy phản biện cho sinh viên bằng cách đưa ra những câu hỏi kích thích tư duy, là điều cốt lõi trong việc kiến tạo tri thức.
Nguồn: http://www.vanhoanghean.vn
Tìm Hiểu Khái Niệm Năng Lực Và Tư Duy Phản Biện Trong Dạy Học
Xu hướng dạy học hiện đại đã chuyển từ định hướng chương trình sang định hướng năng lực (competency). Năng lực là một khái niệm rộng với nhiều nội hàm. Tuy nhiên theo cách hiểu thông thường thì năng lực là sự kết hợp của tư duy, kĩ năng và thái độ. Cùng với khái niệm năng lực là khái niệm “năng lực cốt lõi” bao gồm những kĩ năng cơ bản như: đọc hiểu, tính toán, giao tiếp, phản biện… Bài viết này bước đầu tiếp cận và làm rõ khái niệm năng lực và tư duy phản biện như là một kết cấu cơ bản trong dạy học theo xu hướng hiện đại.
1. Đặt vấn đề
Thực tế việc dạy và học ở Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây vẫn chú trọng giáo dục chương trình, nặng về kiến thức và thiếu nhiều về thực hành cũng như trang bị các kĩ năng nhằm đáp ứng và theo đuổi kịp xu thế giáo dục trên thế giới. Ở các trường Đại học và Cao đẳng, thực tế này càng thấy rõ khi hầu hết sinh viên tốt nghiệp không đáp ứng được yêu cầu công việc của các doanh nghiệp và cơ sở tuyển dụng. Việc dạy học theo định hướng năng lực hiện cũng đang là xu hướng chung của các nước phát triển trên thế giới. Nhằm bắt kịp với giáo dục thế giới, đáp ứng được đòi hỏi của thực tế công việc đối với sinh viên, giáo dục và đào tạo ở Việt Nam cũng đang trên con đường định hướng giáo dục và đào tạo theo năng lực. Tuy nhiên để dạy học theo định hướng năng lực thành công cần phải có những nghiên cứu cụ thể, nghiêm túc về vấn đề này. Do đó, nghiên cứu này bước đầu sẽ tập trung làm rõ hai khái niệm năng lực (NL) và tư duy phản biện (TDPB).
2. Nội dung
2.1. Năng lực
Hiện nay có rất nhiều quan điểm và cách hiểu về NL cả trên thế giới và ở Việt Nam.
* Các tài liệu ở nước ngoài:
+ Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế Thế giới (OECD) cho rằng NL là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể.
+ Chương trình Giáo dục Trung học bang Québec, Canada năm 2004 xem NL là một khả năng hành động hiệu quả bằng sự cố gắng dựa trên nhiều nguồn lực.
+ Denyse Tremblay cho rằng NL là khả năng hành động, thành công và tiến bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp các nguồn lực để đối mặt với các tình huống trong cuộc sống.
+ Còn theo F.E.Weinert, NL là tổng hợp các khả năng và kĩ năng sẵn có hoặc học được cũng như sự sẵn sàng của HS nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh và hành động một cách có trách nhiệm, có sự phê phán để đi đến giải pháp.
Nhìn chung, hầu hết các quan điểm ở trên đều quy NL vào phạm trù khả năng hoặc kĩ năng. Khả năng hay kĩ năng trong tiếng Việt có nghĩa tương đương với một số từ trong tiếng Anh như: competence, ability, capability, skill… Tuy nhiên nếu hiểu NL như hiểu kỉ năng hay khả năng thì có phần chưa toàn diện.
* Ở Việt Nam, với xu hướng giáo dục như đã nói ở trên thì vấn đề NL cũng được nhiều người quan tâm và nghiên cứu. Chẳng hạn như:
+ Trong lĩnh vực tâm lý, người ta cho rằng NL là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lí của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Và chia NL thành năng NL chung, NL cốt lõi và NL chuyên môn.
+ Tài liệu hội thảo chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) tổng thể trong CT GDPT mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo xếp NL vào phạm trù hoạt động và giải thích: NL là sự huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… để thực hiện một loại công việc trong một bối cảnh nhất định.
+ Trần Khánh Đức, trong “Nghiên cứu nhu cầu và xây dựng mô hình đào tạo theo năng lực trong lĩnh vực giáo dục” đã nêu rõ năng lực là khả năng tiếp nhận và vận dụng tổng hợp, có hiệu quả mọi tiềm năng của con người (tri thức, kĩ năng, thái độ, thể lực, niềm tin…) để thực hiện công việc hoặc đối phó với một tình huống, trạng thái nào đó trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp.
+ Theo cách hiểu của Trần Trọng Thủy và Nguyễn Quang Uẩn thì cho rằng NL là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy.
Như vậy, cho dù khó định nghĩa năng lực một cách chính xác nhất nhưng các nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới đã có cách hiểu tương tự nhau về khái niệm này. Tựu chung lại, năng lực được coi là sự kết hợp của các khả năng, phẩm chất, thái độ của một cá nhân hoặc tổ chức để thực hiện một nhiệm vụ có hiệu quả. Bên cạnh đó, tuy có một số quan điểm không cơ bản khác nhau về NL nhưng các nhà nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam đều gặp nhau ở qua điểm cho rằng, NL là sự kết hợp của các khả năng, phẩm chất, thái độ của một cá nhân hoặc tổ chức để thực hiện một nhiệm vụ có hiệu quả. Và được bộc lộ thông qua các hoạt động (hành động, công việc…).
* Quan điểm của tác giả, dựa vào những quan điểm và cách hiểu về NL của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có thể thấy NL là một khái niệm rộng, với nhiều cách hiểu và được nhìn nhận trên nhiều lĩnh vực. Có thể thấy rằng, NL dù trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có ba đặc trưng cơ bản, đó là: được bộc lộ ở hoạt động; tính “hiệu quả” của NL, nghĩa là “thành công” hoặc “chất lượng cao” của hoạt động; “sự phối hợp (tổng hợp, huy động) nhiều nguồn lực”.
Tóm lại, có thể hiểu NL là sự thực hiện đạt hiệu quả cao một hoạt động (công việc) cụ thể trong một lĩnh vực cụ thể, NL được hình thành dựa vào tố chất sẵn có của cá nhân. Thông qua quá trình rèn luyện, học tập và thực hành NL ngày càng phát triển, hoàn thiện đảm bảo cho cá nhân đạt được hiệu quả cao trong một lĩnh vực cụ thể tương ứng với NL mà mình có.
2.2. Tư duy phản biện
* Cách hiểu về phản biện:
Trong lịch sử loài người, cùng với quá trình phát triển của mình về mọi mặt thì tư duy phản biện (critical) cũng đồng thời theo đó hình thành. Tư duy phản biện được hình thành từ rất sớm vào cách đây hơn 2500 năm và nó được thể hiện rất rõ trong triết học Hy Lạp, đặc biệt là triết học Socrat (469 – 399 TCN) về những chất vấn đặt ra đối với nhà cầm quyền trong tính đúng đắn của các chính sách. Socrat cũng được xem là người đặt nền móng cho thuật hùng biện (biểu hiện của kỉ năng phản biện bằng ngôn ngữ) trong việc đưa ra các chất vấn. Ở Phương Đông, tư duy phản biện cũng được tìm thấy trong kinh của Phật giáo, chủ yếu là kinh Vệ đà và kinh A-tì-đạt-ma.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể nhận thấy phản biện là một hoạt động diễn ra thường xuyên và hầu khắp mọi lĩnh vực, bởi đó không chỉ là cách thức và biểu hiện tiến bộ để tìm ra sự đúng đắn nhất mà còn là một nhu cầu của cuộc sống. Trong khoa học, phản biện cũng là một các thức để các nhà khoa học tiệm cận đến gần hơn với chân lý, loại bỏ những cái sai hay điều chưa hợp lý. Đối với một xã hội dân chủ, phản biện và tự do ngôn luận là biểu hiện của một xã hội tiến bộ và là thước đo cho dân chủ thực sự.
Trong hoạt động dạy học, tư duy phản biện hình thành cho người học khả năng hiểu sâu các vấn đề với những câu hỏi vì sao, như thế nào. Bên cạnh đó, phản biện cũng giúp hoạt động dạy và học trở nên dân chủ và có không khí giao tiếp, tác động nhiều chiều hơn là không khí dạy học kiểu một chiều như lâu nay. Phát triển được tư duy phản biện và khuyến khích người học phản biện là một cách thức để đổi mới phương pháp dạy học trong xu hướng dạy học tiếp cận năng lực. Ở đây cũng cần phải hiểu, tư duy phản biện và kĩ năng phản biện là hai khái niệm không trùng khớp hoàn toàn với nhau. Tư duy phản biện là suy nghĩ về những vấn đề, hình thành những lý lẽ và quan điểm trong não bộ (có thể ở dạng tiềm năng chưa bộc lộ) mà chưa được bộc lộ ra ngoài bằng ngôn ngữ hay hay hành động; Kĩ năng phản biện là bộc lộ, trình bày hay triển khai các vấn đề, lý lẽ, quan điểm để giải phóng tư duy đó. Nghĩa là nếu không có tư duy phản biện thì rất khó có kĩ năng phản biện, và kĩ năng phản biện cụ thể hóa tư duy phản biện để vấn đề phản biện được hoàn thành.
Như vậy, hiểu một cách đơn giản thì phản biện là việc đưa ra những suy nghĩ, quan điểm và lý lẽ về một điều gì đó để chứng minh sự đúng đắn hay sai lầm của điều đó (sự vật, hiện tượng, chủ trương, quan điểm, công thức…). Phản biện đồng thời cũng được xem là tư duy về tư duy. Trong lĩnh vực chính trị xã hội, phản biện được xem là việc đưa ra các quan điểm, lý lẽ để tìm kiếm hoặc lựa chọn những giải pháp tốt nhất cho các chính sách của Nhà nước hay đảng phái nắm quyền trong quản lí xã hội. Ở quốc gia nào, môi trường nào mà có không khí dân chủ thực sự thì phản biện cũng vì vậy mà được phát triển và có hiệu quả, đồng thời với đó là hiệu quả trong công việc và những kiến tạo trong xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng phản biện không phải lúc nào cũng đúng nếu không có sự chuẩn bị và đặc biệt là không có kiến thức. Trong một cách hiểu nhất định của bài viết này, phản biện không được xem là cách thức để chống đối lại các quan điểm hay chủ trương chính sách của một tổ chức hay cá nhân, nghĩa là phản biện không có nghĩa là phản đối hay phá hoại. Phản biện là biểu hiện của sự tiến bộ, vì vậy nó cần có đội ngũ trí thức để hình thành tư duy phản biện và bộc lộ nó bằng kĩ năng. Phản biện không phải là phá hoại, càng không phải là phản động. Cho nên phản biện cần được hiều là cách thức để đưa ra và nhằm tìm cách giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
* Khái niệm tư duy phản biện:
* Quy trình của tư duy phản biện:
Tư duy phản biện có quy trình như sau:
+ Nhận ra vấn đề, tìm ra được những phương tiện khả thi để đáp ứng cho việc giải quyết những vấn đề đó.
+ Hiểu tầm quan trọng của ưu tiên hóa và trật tự ưu tiên trong việc giải quyết vấn đề.
+ Thu thập những thông tin thiết yếu và sắp xếp theo một trật tự nhất định.
+ Nhận ra những giả định và giá trị không được nêu rõ.
+ Lĩnh hội thấu đáo và dùng ngôn ngữ một cách rõ ràng, chính xác, sáng suốt.
+ Diễn giải các dữ liệu nhằm đánh giá các minh chứng và luận điểm.
+ Nhận thức được sự tồn tại (hay không tồn tại) của những mối quan hệ logic giữa các ý kiến, nhận định.
+ Rút ra những kết luận và khái quát hóa được đảm bảo.
+ Đưa những kết luận và khái quát hóa ấy ra kiểm nghiệm.
+ Xây dựng lại mô hình niềm tin của mình trên cơ sở những trải nghiệm rộng hơn.
+ Đưa ra những nhận định, đánh giá xác đáng về những điều cụ thể trong đời sống hàng ngày.
* Các kĩ năng của tư duy phản biện:
Các kỹ năng cốt lõi của tư duy phản biện là quan sát, diễn giải, phân tích, suy luận, đánh giá, giải thích, và tri nhận tổng hợp. Tuy nhiên, một cá nhân hay một nhóm người có năng lực tư duy phản biện thì họ thường chú trọng tới các điểm sau: Minh chứng qua quan sát; Bối cảnh; Những tiêu chí quan yếu và thiết thực để có một nhận định đúng; Những phương pháp có thể áp dụng được hay kỹ thuật xây dựng nhận định; Những cơ cấu lý thuyết có thể áp dụng được để hiểu những vấn đề và câu hỏi trong tầm tay. Ngoài ra, muốn hoạt động phản biện diễn ra hiệu quả, người phản biện cần phải chuẩn bị để sẵn sàng gắn việc giải quyết những vấn đề nêu ra với những kĩ năng tương ứng. Tư duy phản biện vận dụng không chỉ tri thức về logic mà còn những tiêu chí trí tuệ khác như sự rõ ràng, đáng tin cậy, sự xác đáng, sự sâu sắc, tính thiết thực, chiều sâu và tầm rộng, cũng như sự quan yếu và tính công bằng.
Tóm lại, có thể hiểu tư duy phản biện là một nỗ lực nhất quán nhằm xem xét bất cứ niềm tin nào hay bất cứ hình thức tri thức nào dưới ánh sáng của các minh chứng hỗ trợ cho nó và những kết luận xa hơn mà nó nhắm tới.
2.3. Dạy học định hướng năng lực
Dạy học định hướng năng lực là quan điểm và cách thức dạy học mới ở Việt Nam. Điều này có nghĩa là, cách dạy học thông thường lâu nay chỉ chú trọng việc giảng dạy kiến thức và đánh giá nhận thức của người học thông qua các bài kiểm tra (nói hoặc viết). Thì dạy học định hướng năng lực tập trung vào việc phát triển các năng lực cần thiết để người học có thể thành công trong cuộc sống cũng như công việc.
Trong những thập kỉ gần đây với sự phát triển mạnh của khoa học kĩ thuật cũng như tri thức, giáo dục nếu chỉ hướng tới việc nắm vững kiến thức là không đủ, bởi kiến thức hôm qua còn mới, hôm nay đã trở thành lạc hậu. Do đó nhiều hệ thống giáo dục đã hướng tới việc giáo dục để người học có đủ khả năng làm chủ kiến thức và sử dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong khoa học cũng như trong thực tế. Khi mục tiêu và hình thái giáo dục chuyển đổi thì phương pháp giảng dạy và đánh giá cũng thay đổi theo. Các hệ thống giáo dục tiên tiến đã áp dụng phương pháp giảng dạy theo năng lực thay vì giảng dạy theo nội dung, kiến thức. Giảng dạy theo năng lực là hướng tiếp cận tập trung vào đầu ra của quá trình dạy và học, trong đó nhấn mạnh người học cần đạt được các mức năng lực như thế nào sau khi kết thúc một chương trình giáo dục. Nói cách khác, chất lượng đầu ra đóng vai trò quan trọng nhất đối với giảng dạy theo năng lực. Điều này có nghĩa là để chương trình giảng dạy theo năng lực có hiệu quả, cần phải bắt đầu với bức tranh rõ ràng về năng lực quan trọng mà người học cần phải đạt được, tiếp đến là xây dựng và phát triển chương trình dạy và học, sau đó giảng dạy và xây dựng các phương pháp đánh giá nhằm đảm bảo rằng mục đích của giáo dục theo năng lực đạt được mục tiêu đề ra. Có thể thấy, yếu tố quan trọng của giáo dục năng lực là xây dựng được các tiêu chuẩn đầu ra rõ ràng thể hiện rõ mục tiêu của giáo dục, thiết lập được các điều kiện và cơ hội để khuyến khích người học có thể đạt được các mục tiêu ấy.
Để việc dạy học định hướng theo năng lực có hiểu qua, người giảng viên cần thực hiện các bước cơ bản sau: bước đầu tiên trong việc thiết kế chương trình giáo dục theo năng lực là xác định các năng lực cơ bản học sinh cần phải đạt được khi kết thúc khóa học. Lưu ý là chỉ xác định một số năng lực cơ bản cần thiết nhất, phản ánh được mục tiêu của chương trình giáo dục. Tiếp theo là phát triển các năng lực thành phần của năng lực cơ bản, phù hợp với mục tiêu của chương trình hoặc bậc học cụ thể. Các năng lực thành phần này phải được tuyên bố rõ ràng, có thể đo lường được và phải mô tả chính xác học sinh có thể làm được gì sau khi kết thúc chương trình hoặc bậc học. Một số đặc tính mà các nhà nghiên cứu lưu ý khi xây dựng chương trình giáo dục theo năng lực như các phương pháp và phương tiện giảng dạy phải đa dạng; các tài liệu, tư liệu, dụng cụ dạy học phải đầy đủ đáp ứng được yêu cầu của chương trình giảng dạy; học sinh phải được thông báo trước về các năng lực cần đạt được và được phản hồi liên tục về sự tiến bộ trong học tập nhằm có những hành động phù hợp để cải tiến hoặc nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Tóm lại, chuyển từ giáo dục kiến thức sang giáo dục theo năng lực là hình thức chuyển đổi từ việc nhấn mạnh việc giảng viên tin là học sinh cần phải biết gì sang việc học sinh phải nắm rõ mình cần biết gì và có thể làm gì trong các tình huống và bối cảnh khác nhau. Do đó, giảng dạy theo năng lực là lấy học sinh làm trung tâm và giảng viên giữ vai trò như người hướng dẫn. Phương pháp này giúp học sinh chủ động hơn trong việc đạt được năng lực cần phải có theo yêu cầu đặt ra phù hợp với từng điểm mạnh, điểm yếu của cá nhân. Giảng dạy theo năng lực là một hình thái giáo dục có thể áp dụng cho nhiều lĩnh vực và bối cảnh. Chính vì thế, giáo dục theo năng lực tập trung vào đầu ra gắn liền với nhu cầu của thị trường lao động và xã hội, hoặc cấp học trên.
Đối với tư duy phản biện trong dạy học, có thể nói một chương trình đào tạo nhằm vào việc xây dựng kỹ năng tư duy sẽ có lợi không chỉ cho người học mà là cho cả cộng đồng và toàn xã hội. Điểm mấu chốt để thấy tầm quan trọng của tư duy phản biện trong khoa học là hiểu rõ tầm quan trọng lớn lao của tư duy phản biện trong việc học tập. Có hai ý nghĩa đối với việc học tập. Ý nghĩa thứ nhất xuất hiện khi người học lần đầu tiên xây dựng trong tâm trí mình những ý tưởng cơ bản, những nguyên tắc và lý thuyết cố hữu về nội dung. Đây là quá trình nội tại hóa. Ý nghĩa thứ hai nảy sinh khi người học sử dụng những ý tưởng, nguyên tắc và lý thuyết ấy một cách hữu hiệu vì nó đã trở thành thiết yếu trong đời họ. Đó là quá trình ứng dụng.
Thầy giáo giỏi sẽ nuôi dưỡng tư duy phản biện cho học sinh trong mọi giai đoạn của việc học kể cả giai đoạn bắt đầu. Điều quan trọng ở đây là, người thầy vun đắp tư duy phản biện cho học sinh bằng cách đưa ra những câu hỏi kích thích tư duy, là điều cốt lõi trong việc kiến tạo tri thức. Đối với học sinh, để học được nội dung kiến thức, thì sự gắn kết trí tuệ là điều vô cùng cốt yếu. Mọi học sinh đều phải tự mình tư duy bằng cái đầu của chính mình, tự mình kiến tạo nên tri thức cho bản thân. Người thầy giáo giỏi nhận thức được điều này và tập trung vào những câu hỏi, bài đọc và những hoạt động kích thích suy nghĩ để học sinh tự mình làm chủ những khái niệm cốt lõi và những nguyên tắc ẩn dưới sự vật hay sự việc.
3. Kết luận
Dạy học định hướng năng lực đang là xu thế và yêu cầu cơ bản của giáo dục Việt Nam. Đây không chỉ là sự thay đổi cách thức và phương pháp dạy học mà còn là sự thay đổi hình thái dạy học để theo kịp và đáp ứng được đòi hỏi của thời đại, và thực tế xã hội. Năng lực là khái niệm rộng và được cấu thành bởi nhiều kĩ năng khác nhau. Trong dạy học năng lực được hiểu là các tiêu chí được đề ra ngay từ đầu để nhằm phục vụ quá trình giáo dục hướng người học (yêu cầu) đạt được sau khi hoàn thành quá trình giáo dục. Theo cách hiểu đó, tư duy phản biển cũng được xem là một kĩ năng để phát huy năng lực chủ động, sáng tạo của học sinh. Đó cũng là cách thức để người giáo viên tạo ra không khí giao tiếp dân chủ trong quá trình dạy học.
Dạy học định hướng theo năng lực là một quá trình, vì vậy để thực hiện được cần có sự động bộ, nhất quán trong tất cả các khâu để đạt được mục tiêu đề ra. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng chuyên môn cho giáo viên thì việc hình thành và đưa ra các khung năng lực cụ thể cho từng cấp học cũng là công việc yêu cầu được thực hiện song song.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Tài liệu hội thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội, tháng 3-2015.
[2]. Hoàng Hòa Bình “Năng lực và đánh giá theo năng lực”, Tạp chí khoa học – ĐHSP chúng tôi số 6 (71) 2015.
[3]. Đặng Thành Hưng (2012), “Năng lực và giáo dục theo tiếp cận năng lực”, Tạp chí Quản lí Giáo dục, (43), tháng 12-2012.
[4]. Nguyễn Lan Phương (2015), Đánh giá năng lực người học, Báo cáo khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục phổ thông, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, tháng 01- 2015.
[5]. Lương Việt Thái (chủ nhiệm đề tài), Nguyễn Hồng Thuận, Phạm Thanh Tâm… (2011), Phát triển Chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển năng lực người học, Đề tài nghiên cứu khoa học, Mã số: B2008-37-52 TĐ, Hà Nội.
[6]. Nguyễn Trần Bạt “Phản biện xã hội” http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/ phan_bien_xa_hoi.html, 12-1-2014.
Trích dẫn: Trường Đại học Khánh Hòa
Phân Tích Khái Niệm Của Tư Duy. Muốn Phát Triển Tư Duy Thì Cần Phải Làm Gì ?
Định nghĩa: Tư duy là quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
* Các khái niệm cần làm rõ:
– Quá trình tâm lý: là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối ngắn, có mở đầu, diễn biến và kết thúc tương đối rõ ràng.
Quá trình tâm lý gồm các quá trình:
+ Quá trình nhận thức: là quá trình phản ảnh bản thân hiện tượng khách quan (cảm giác, tri giác, biểu tượng, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy).
+ Quá trình cảm xúc: là những rung cảm của chủ thể khi nhận thức thế giới bên ngoài từ đó biểu thị thái độ đối với khách quan bên ngoài.
+ Quá trình ý chí: là quá trình điều khiển, hành động của chủ thể nhằm cải tạo thế giới, thỏa mãn yêu cầu cá nhân và xã hội (không chỉ điều khiển cá nhân mà cả thế giới bên ngoài).
Vì vậy Đời sống tâm lý luôn phải cân bằng 3 quá trình trên. . Nếu thiên về lý trí con người sẽ thiếu tình cảm, tâm hồn khô khan. . Nếu thiên về tình cảm con người sẽ thiếu sáng suốt.
– Thiếu ý chí thì tình cảm con người không thể biến thành hành động. (vd: Đi dọc đường thấy quán hủ tiếu thấy thèm nên ghé vào ăn. Lúc gặp người già đi ăn xin thấy thương cảm nên cho tiền)
– Thuộc tính bản chất: là sự tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên hệ mang tính cơ bản, tất nhiên, ổn định bên trong sự vật chi phối sự vận động và phát triển của nó để phân biệt giữa sự vật này với sự khác.
Đặc tính vốn có của một sự vật, nhờ đó sự vật tồn tại và qua đó con người nhận thức được sự vật, phân biệt được sự vật này với sự vật khác.
Màu sắc là một thuộc tính của mọi vật thể. (vd: Thuộc tính bản chất của con người đó chính là biết chế tạo và sử dụng các công cụ lao động, có ngôn ngữ, có quan hệ xã hội. “Gừng cay muối mặn”).
– Nhận thức cảm tính là: phản ánh một cách trực tiếp các đối tượng bên ngoài sự vật, hiện tượng (màu sắc, kích thước, khối lượng, âm thanh, mùi, vị, bề mặt, nhiệt độ,…) thông qua các giác quan vào bộ não của con người. Mang tính chủ quan nên thường không chính xác.
– Nhận thức lý tính: được nảy sinh từ nhận thức cảm tính. Nó phản ánh một cách gián tiếp, trừu tượng, khái quát, sâu sắc những đặc điểm, tính chất, quan hệ bên trong của sự vật (đặc tính, tính chất, công dụng) vào trong bộ não con người và được biểu đạt bằng ngôn ngữ. Mang tính khách quan nên thường chính xác.
– Mối liên hệ: là sự tác động (ràng buộc, thâm nhập,…) lẫn nhau mà sự thay đổi cái này tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi của cái kia. (vd: mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng, khi bản chất thay đổi thì hiện tượng sẽ thay đổi, đồng thời hiện tượng sẽ tác động lại đối với bản chất).
– Quy luật: Quan hệ không đổi, được biểu thị dưới dạng công thức khái quát, giữa nhiều hiện tượng hoặc nhóm hiện tượng, là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, chung, lặp lại giữa các sự vật hiện tượng và chi phối mọi sự vận động, phát triển của nó. (vd: Quy luật từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong những quy luật cơ bản nhất trong thế giới vật chất, tồn tại trong mọi sự vận động và phát triển).
– Chưa biết: là sự hoàn toàn chưa nhận thức hay nhận thức chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa biết chắc chắn, là quá trình nhận thức cảm tính của con người (là giai đoạn đầu để hình thành nên tư duy). Có thể xem chưa biết có hai dạng như sau:
* Chưa biết không tư duy: sự hoàn toàn chưa nhận thức, xa tầm hiểu biết. Vd: Một đứa trẻ lớp 1 sẽ hoàn toàn không nhận thức được một bài toán lượng giác của lớp 10.
* Chưa biết có tư duy: sự nhận thức chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa biết chắc chắn.
Vd: Ca dao có câu: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, Ngày tháng mười chưa cười đã tối.” Thực chất người ta chỉ biết vào những ngày của tháng nào thì trời sẽ sáng lâu hay tối lâu. Nhưng không hề biết vào những tháng này thì trục của Trái đất bị lệch nhiều nhất và làm cho một bán cầu nhận ánh sáng nhiều nhất hay ít nhất.
Phát triển tư duy
– Phải xem trọng việc phát triển tư duy. Vì nếu không có khả năng tư duy thì không thể học tập, không thể hiểu biết, không cải tạo được tự nhiên, xã hội và rèn luyện bản thân.
– Phải đặt cá nhân vào tình huống có vấn đề để kích thích tính tích cực của bản thân, độc lập sáng tạo khi giải quyết tình huống có vấn đề. – Phải rèn luyện học tập nâng cao nhận thức để phát triển khả năng tư duy tốt, chính xác.
– Phải tăng cường khả năng trừu tượng khái quát. – Phải thường xuyên quan sát tìm hiểu thực tế, rèn luyện cảm giác, tính nhạy cảm, năng lực trí nhớ, nhằm nâng cao nhận thức cảm tính để sau đó rút ra nhận thức một cách lý tính, có khoa học.
– Phải trau dồi vốn ngôn ngữ, vì ngôn ngữ là cái vỏ thể hiện của tư duy và thông qua đó mới biểu đạt tư duy của bản thân cũng như lĩnh hội tư duy của người khác.
– Tích cực trong nhiều hoạt động và các mối quan hệ giao tiếp.
* Bên cạnh đó, cũng có những sai sót trong tư duy mà chúng ta cần tránh Sai sót trong tư duy có khi là hiện tượng tâm lý bình thường nhưng cũng có khi sai sót do bệnh lý.
Là những sai sót thuộc về kết quả tư duy (phán đoán, suy lý không chính xác, sự hiểu biết khái niệm không đầy đủ), hoặc về hình thức thao tác của tư duy (không biết tư duy trừu tượng, sai sót trong phân tích, tổng hợp vấn đề, thiếu mềm dẻo, …)
Sai sót của tư duy có quan hệ chặt chẽ với những sai sót của các quá trình tâm lý khác nhất là ý thức, cảm xúc, chú ý, năng lực, vốn hiểu biết.
● Sự định kiến
– Là kết quả tư duy về những sự vật hiện tượng có thực nhưng người bệnh cố gán cho nó một ý nghĩa khác quá mức, không đúng như vốn có của nó và ý tưởng này chiếm ưu thế trong ý thức, tình cảm,…của người bệnh. Vd người bệnh quá cường điệu về khuyết điểm của mình, tự ty…
● Ý tưởng ám ảnh:
– Bệnh nhân có những ý tưởng không phù hợp với thực tế khách quan. Vd: Bệnh nhân luôn có ý nghĩ rằng mình có lỗi hoặc xúc phạm với thầy thuốc,… nhưng trong thực tế thì không phải như vậy. Ý nghĩ này có khi người bệnh biết là sai và tự đấu tranh để xua đuổi nó nhưng không được. Ý tưởng ám ảnh thường gắn với những hiện tượng ám ảnh khác, như lo sợ ám ảnh, hành vi ám ảnh.
● Hoang tưởng: – Là những ý nghĩ, phán đoán sai lầm, không phù hợp với thực tế do bệnh tâm thần sinh ra. Vd: Bệnh nhân luôn có ý nghĩ mình bị truy hại, bị nhiều bệnh hoặc mình là người vĩ đại,… những ý nghĩ này sẽ mất đi khi bệnh khỏi hoặc thuyên giảm trong các bệnh tâm thần.
Thử Tìm Một Cơ Sở Lí Thuyết Cho Khái Niệm Phản Biện Xã Hội
Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau, đến nay, khái niệm phản biện xã hội vẫn chưa được diễn giải một cách thuyết phục, thỏa đáng. Điều đó gợi ý rằng, đã đến lúc cần phải xác lập một cơ sở lí thuyết thích hợp cho thuật ngữ phản biện xã hội trước khi tiếp tục bàn luận về khái niệm này trong bối cảnh Việt Nam. Theo các tác giả của bài viết, phản biện xã hội tương ứng với một thuật ngữ mang tính phổ quát – đó là phê phán/phê bình xã hội (social criticism). Chính vì thế, hành trình đi tìm cơ sở lí thuyết cho khái niệm phản biện xã hội đồng nghĩa với việc trình bày một số nội dung cốt lõi của khái niệm phê bình/phê phán xã hội cả từ góc nhìn phổ quát lẫn góc nhìn lịch sử – cụ thể.
Phê phán xã hội: từ góc nhìn phổ quát
Theo Đinh Gia Hưng, khái niệm phản biện xã hội được chuyển ngữ trực tiếp từ một cụm từ tiếng Anh là social counter-argument. Tuy nhiên, social counter-argument là một cụm từ báo chí, mà không phải là một thuật ngữ khoa học. Điều này vô tình làm nghèo nội dung của khái niệm tiếng Việt khi mà từ nguyên tiếng Anh của nó chỉ giới hạn trong lĩnh vực truyền thông. Trong khi đó, truyền thống học thuật phương Tây vẫn sử dụng một khái niệm khác tuy cùng trường nghĩa nhưng có nội hàm phong phú hơn so với social counter-argument, đó là: social criticism: Phê phán/phê bình xã hội(1).
Trong khi đó, từ phân tích của học giả Pháp Michael Foucault, tính phổ quát của phê phán/phê bình xã hội được thể hiện qua cách thức mà cá nhân (chủ thể) bộc lộ trong mối quan hệ liên ứng ( consensual) với các định chế, qui phạm xã hội(3). Tính phổ quát biểu hiện ở chỗ: sự phản tư của cá nhân trước các định chế/khuôn mẫu xã hội là vấn đề muôn thuở ở mọi nền văn hóa với các hình thức khác nhau. Michael Foucault cho rằng: các hệ hình tri thức hay các định chế xã hội (có khi ông còn gọi là thiết chế chân lý) có chức năng chi phối, điều tiết, thậm chí cấu tạo nên diện mạo của chủ thể xã hội. Không có cái tôi hình thành bên ngoài những thiết chế có sẵn từ trước. Bởi thế, chủ thể luôn có nguy cơ bị các định chế bên ngoài áp đặt, chế ngự, kìm hãm. Cho nên, muốn đổi mới, chủ thể phải tiến hành một công việc tưởng chừng bất khả giải: thay đổi chính cái khung khổ khuôn đúc nên mình – tức thay đổi tư duy, ý thức hệ, tri thức, quyền năng.
Về nguyên tắc, muốn thay đổi một trật tự thì chủ thể phải nhận ra các khuyết tật, yếu điểm của trật tự đó. Trước đòi hỏi ấy, phê bình/phê phán xuất hiện. Nhiệm vụ của phê bình là đưa ra ánh sáng những quá trình, cơ chế gây nên hiện trạng xơ cứng, status quo, từ đó mở ra khả năng đổi mới (4). Foucault gọi quá trình thiết chế hóa, khuôn mẫu hóa hay tri thức hóa chủ thể là quá trình thiết trị hóa ( governmentalization). Cho nên, phê phán/phê bình đồng nghĩa với giải thiết trị, giải áp chế ( desubjugation). Nói khác đi, phê bình tức là từ chối bị thiết trị theo cách mà chủ thể đang bị thiết trị.
Về sau, luận điểm của Foucault được Butler tiếp tục phát triển một cách sáng tạo. Butler phân tích rằng: chủ thể không phải chỉ đang được hình thành, được tạo tác ở dạng bị động bằng các thiết chế, các chuẩn mực văn hóa, xã hội; mà còn đang chủ động tạo tác chính những thiết chế này. Quá trình được tạo tác và đang tạo tác không tách rời nhau và phản ánh mối quan hệ giữa chuẩn mực và chủ thể (5). Một mặt, các khuôn mẫu giá trị luôn hướng chủ thể vào những hoạt động, hành vi, và kể cả tư duy, cảm xúc đã được quy định trước. Và, để hòa nhập được vào cộng đồng, cá nhân phải không ngừng tự đưa mình vào những chuẩn mực sẵn có. Mặt khác, trở thành một chủ thể hoàn chỉnh không phải là mục đích sau cùng của cá nhân. Chủ thể là một trạng thái hình thành, và không bao giờ là một cái gì đó có thể hoàn chỉnh. Hơn nữa, những thiết chế chuẩn mực, chân lý hoạch định một không gian giới hạn cho chủ thể không có nghĩa là những thiết chế đó tồn tại độc lập, bất di bất dịch trong mối quan hệ giữa chúng với chủ thể. Chúng tạo nên chủ thể nhưng cũng không ngừng được chủ thể tạo nên. Cái tôi tự hình thành nên chính nó trong phạm vi phân định sẵn chính là một luận điểm đề cao vai trò của chủ thể trong sự vận hành của văn hóa, xã hội, là một nỗ lực mà chính trị học của Butler muốn phá giải chủ nghĩa bản thể và những phạm trù như giới tính, căn cước vốn vẫn được cho là bất biến, độc lập hoàn toàn với chủ thể (6).
Như vậy, trong ý nghĩa phổ quát nhất, ý niệm phê phán/phê bình trước hết diễn tả tính năng động, tích cực của cá thể trong mối quan hệ với các định chế, khuôn mẫu xã hội: vừa tiếp nhận các khuôn mẫu, định chế có sẵn để cộng sinh với nó; vừa phê phán các khuyết tật của nó để tìm kiếm các giá trị, khuôn mẫu mới, nhất là khi các khuôn mẫu/giá trị ấy có nguy cơ ngăn trở sự vươn lên của chủ thể. Mối quan hệ nước đôi, đa chiều này phản ánh một trong những thuộc tính cơ bản nhất của con người (hiểu theo nghĩa rộng): không ngừng suy tư, chất vấn, đấu tranh với mọi trở lực để hướng đến một viễn tưởng tự do, trong đó con người được là con người theo nghĩa cao quý, sang trọng nhất của danh từ này. Bởi thế, khi tìm cách vạch ra đường phân thủy giữa các lí thuyết phê phán ( critical theories) và các lí thuyết tiền phê phán, Horkheimer đã viết: một lí thuyết [được gọi] là phê phán trong chừng mực mà nó hướng vào mục đích giải phóng con người ( human beings) khỏi những ngoại cảnh nô dịch họ (7).
Xét đến cùng, thực chất của phê phán/phê bình xã hội là vấn đề mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Trong ý nghĩa ấy, nó là câu chuyện chung của mọi cộng đồng, mọi nền văn hóa; có điều, do sự qui định của các điều kiện lịch sử – cụ thể mà được biểu hiện hoặc vận động thành các dạng thức hay cấp độ khác nhau. Trong các xã hội mở, sự năng động của các cá thể sẽ kết thành sự năng động của toàn xã hội và hoạt động phê phán không còn giới hạn trong nỗ lực chống thiết trị hóa của mỗi cá thể mà phát triển thành một cơ chế quan hệ giữa xã hội dân sự và bộ máy nhà nước. Trong các xã hội đóng, sự năng động cá thể thiếu các điều kiện cần thiết để chuyển hóa thành sự năng động xã hội. Khi cộng đồng thiếu sự năng động và khai minh, khi nhà nước có xu hướng kiểm soát xã hội, điều tất yếu là phê phán/phê bình xã hội bị đẩy ra khỏi đời sống thực tiễn, từ đó bị xem như một cấm kị hay một sinh hoạt ngoại biên.
Phê phán xã hội trong Hiện đại thứ nhất
Dù là một ý niệm mang tính phổ quát, nhưng phải đợi đến thế kỉ XVII – XVIII, khi châu Âu bước vào quá trình hiện đại hóa (Hiện đại thứ nhất), thì trào lưu phê phán ( criticism) mới thực sự trở thành một hiện tượng văn hóa – xã hội và từ đây, thuật ngữ phê phán xã hội ( social criticism) mới chính thức ra đời để phản ánh một hiện thực tương ứng.
Khái niệm Hiện đại thứ nhất được dùng để chỉ giai đoạn “cổ điển” của tiến trình hiện đại hóa – một giai đoạn kéo dài từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XX với ba đặc trưng cơ bản: công nghiệp hóa, đô thị hóa và cá nhân hóa. Trong một chừng mực nhất định, Hiện đại hóa thứ nhất là sự hiện thực hóa các đề án tư tưởng của phong trào Khai sáng diễn ra sôi nổi ở châu Âu trong thế kỉ XVIII mà nội dung cốt lõi của nó là niềm tin của con người về sự thế chỗ tất yếu của ánh sáng Lý Trí và Tiến Bộ đối với bóng tối của huyền thoại, giáo điều, mê tín, lạc hậu, bất công ngăn cản bước phát triển của con người trên tất cả các lãnh vực xã hội, chính trị, văn hóa, tôn giáo, khoa học (8). Nhưng bức tranh Khai sáng trong hiện thực lại không hoàn toàn sáng tươi như chính những người chủ trương Khai sáng kì vọng. Cuộc cách mạng Pháp 1789 với những hệ lụy ngoài ý muốn của nó đã phủ không ít bóng tối lên những niềm lạc quan. Điều này cho thấy: nhiều mệnh đề tư tưởng của Khai sáng cần được kiểm thảo lại: không phải để phủ định nó, mà để làm cho nó phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn. Do vậy, trong lịch sử hiện đại hóa phương Tây, bước đi đầu tiên của các nhà phê phán chính là phê phán bản thân hệ tư tưởng Khai sáng.
Khởi đi với Jean-Jacques Rousseau, phong trào phê bình Khai sáng chủ yếu gắn với các quan điểm phê bình của Kant, Hegel và Marx. Đóng góp trước hết của ba triết gia Đức là đưa ra một cái nhìn biện chứng về Khai sáng: không có một quá trình Khai sáng chung chung, phi lịch sử, phi xã hội, trong suốt, toàn hảo. Khai sáng chỉ có ý nghĩa trong tương quan giữa Khai sáng và lịch sử về tự do của con người.
Tiếp theo, đối lập với các nhà tư tưởng Khai sáng, Kant, Hegel và Marx cho rằng, tuy lịch sử tự do là công trình của con người, nhưng điều đó không có nghĩa rằng tự do mà con người tạo nên là kết quả của hành vi tuyệt đối tự do của con người. Con người làm nên lịch sử trong những hoàn cảnh không phải do chính con người lựa chọn, con người là kẻ nhận lãnh hoàn cảnh đã có sẵn từ trước còn để lại trực tiếp cho nó. Nghĩa là, hành động của nó không tuyệt đối tự do. Nhưng chính trong điều kiện không tự do ấy con người khởi sự làm nên tự do hay lên đường giải phóng. Do đấy, Khai sáng đối với Kant, Hegel và Marx không có nghĩa là qui hoạch ngay từ đầu một tiến trình lịch sử phổ quát, hay kiến tạo tiến trình tự do và giải phóng theo đường thẳng một chiều. Khai sáng đối với họ là sự phân tích phê phán để xem mỗi một tình trạng đã đạt được có tự do hay không tự do, có nghĩa là phản tỉnh, là tư duy tiên đoán về những phương tiện và mục đích khả thể hầu hỗ trợ việc thực hiện tự do trong tương lai (9).
Sau cùng, Kant, Hegel và Marx cũng phê phán tính chất phổ quát, trừu tượng của các lý thuyết Khai sáng. Họ cho rằng những lý thuyết gia Khai sáng này quá lạc quan, tin rằng Khai sáng, tiến bộ, tự do và trưởng thành sẽ được tiếp tục triển khai trong xã hội toàn cầu tương lai vì sự ưu việt đạt được của Âu châu trên các lãnh vực thương mại, giao thông, khoa học và nghệ thuật, đào tạo và tôn giáo so với trước đó và nhất là so với các dân tộc còn chậm tiến ở Á, Phi và Mỹ La Tinh (10).
Cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, Hiện đại hóa thứ nhất bước sang một khúc ngoặt mới nhờ áp dụng công nghệ sản xuất dây chuyền theo kiểu Taylor (Mỹ). Phương pháp sản xuất mới đã tạo nên bước đột biến về năng suất và sản phẩm công nghiệp. Mặt khác, nó cũng đưa đến những hệ lụy mới trong đời sống xã hội với hai đặc điểm nổi bật: Thứ nhất,tính hiện đại trở thành sản xuất và tiêu dùng hàng loạt và thế giới thuần túy của lý trí từ nay đã bị xâm chiếm bởi những đám đông đem những công cụ của tính hiện đại phục vụ cho những yêu cầu tầm thường nhất, thậm chí phi lý nhất. Thứ hai, thế giới của lý trí hiện đại ngày càng bị phụ thuộc vào các chính sách hiện đại hóa và vào các nền độc tài dân tộc chủ nghĩa trong thế kỉ XX (11).
Trước tình hình đó, phản ứng của giới trí thức phương Tây tỏ ra quyết liệt hơn so với các bậc tiền bối của họ ở thế kỉ XIX. Từ bối cảnh này đã hình thành nên các lí thuyết phê phán của trường phái Francfort – một trường phái được hình thành ở Đức trước thế chiến II và tiếp tục gây ảnh hưởng lên các trào lưu tư tưởng Âu – Mỹ trong các thập niên đầu của thời hậu chiến thế giới. Trong tâm thế “mang mang” (Huy Cận) của giới trí thức thời đại, Horkheimer, người đặt nền móng cho trường phái Francfort và là người đầu tiên định nghĩa thuật ngữ social criticism đã cảm tác: “Từ “lí trí” trong một thời gian dài đã có nghĩa là hoạt động nhận thức và hấp thụ những ý tưởng phổ quát được coi là mục đích của con người. Ngày nay, trái lại, không chỉ vai trò mà cả công việc chủ yếu của lý trí là phải tìm kiếm những phương tiện để phục vụ các mục đích của mỗi người vào một thời điểm nhất định”. Nói theo Walter Benjamin, một người bạn cùng chí hướng của ông, thì kinh nghiệm sáng tạo ( erfahrung) bị thay thế bằng cái đã trải qua ( erlebnis). Chủ thể cá nhân, bị tách khỏi lý trí, rơi vào sự phụ thuộc quyền lực chính trị hay kinh tế. Cần phải đem lại cho con người sự tự do tích cực mà Hegel và Marx từng mơ ước cho nó để che chở các cá nhân khỏi những lấn át quyền lực (12).
Phê phán xã hội trong Hiện đại thứ hai
Thuật ngữ Hiện đại thứ hai được dùng để chỉ một thời kì mới trong tiến trình hiện đại hóa của nhân loại – được bắt đầu từ thập niên 1970 và vẫn đang tiếp diễn cho đến ngày nay. Cơ sở để phân biệt giữa Hiện đại thứ nhất và Hiện đại thứ hai là sự thay thế ” lôgíc của việc sản xuất sự giàu có” bằng ” lôgíc của việc sản xuất nguy cơ“; đồng thời cũng là sự biến đổi từ ” lôgíc của việc phân phối sự giàu có” thành ” lôgíc của việc phân phối nguy cơ” (13). Trong bối cảnh ấy, vấn đề phê bình/phản tư xã hội tiếp tục được triển khai với những sắc diện mới. Cùng với Marcuse và đặc biệt là Jurgen Habermas, trào lưu phê phán tiếp tục mở rộng thêm với các thuyết nam nữ bình quyền ( feminism), thuyết phê phán chủng tộc ( critical race theory) và một số hình thức khác của chủ nghĩa phê phán hậu thuộc địa ( post-colonial criticism)(14).
Nói tóm lại, phê bình/ phê phán xã hội là hệ quả sinh động của một quá trình chuyển hóa từ sự thức tỉnh thường trực của chủ thể/cá nhân trước các định chế, khuôn mẫu xã hội thành năng lực phản tư, phê phán của toàn xã hội trước những điều kiện, tình thế, hoàn cảnh có nguy cơ ngăn cản quá trình khai sáng, tiến bộ của cộng đồng nhằm mở đường cho những thay đổi tích cực, tiến bộ. Bởi vậy, phê bình/phê phán xã hội còn là động năng phát triển của các cộng đồng xã hội.
Trở lại vấn đề đã được đặt ra ở đầu bài, việc chuyển dịch khái niệm phản biện xã hội từ social counter-argument hay social criticism trên thực tế đã vượt ra khỏi khuôn khổ của một câu chuyện chữ nghĩa: về bản chất, nó là cách lựa chọn một hệ qui chiếu tri thức khả tín để làm công cụ tư duy và nhận thức một vấn đề mang tính thời sự và thực tiễn sâu sắc. Có thể công việc xác định hay diễn dịch từ nguyên của khái niệm phản biện xã hội sẽ chưa dừng lại, nhưng rõ ràng, việc đặt khái niệm này trong mối tương quan với phê bình/phê phán/phản tư xã hội ( social criticism) – một thuật ngữ phổ dụng trong nghiên cứu học thuật lẫn sinh hoạt đời thường ở các quốc gia phát triển đã mở ra một chân trời mới trong nhận thức về phản biện xã hội. Hóa ra: phản biện, phản tư, phê bình hay phê phán xã hội từ khởi thủy đã là những khái niệm liên văn hóa, mang cả tầm vóc phổ quát và cụ thể mà bất cứ cộng đồng nào cũng cần chuyển hóa nội dung của nó thành những cơ chế thực tiễn nhằm mở đường cho quá trình vươn đến Khai sáng, Tiến bộ, Dân chủ và Văn minh. Đến đây, có hai câu hỏi lớn tiếp tục được đặt ra: các chức năng cụ thể của phản biện xã hội trong đời sống thực tiễn là gì; và phản biện xã hội cần những điều kiện cơ bản nào để trở nên hiện thực hóa? Chúng tôi sẽ cố gắng tìm ra lời đáp cho hai câu hỏi mang tính bản thể luận ấy trong bài viết tiếp theo.
(1) http://vn.360plus.yahoo.com/ghung71/article? mid=1091&fid=-1
(2) Michael Walzer (1985), Intepretation and social criticism, chúng tôi tr. 30-31.
(3) Trong mục này, chúng tôi sử dụng nhiều tư liệu của hai nghiên cứu sinh Phạm Quốc Lộc và Lê Nguyên Long trong một bài viết xuất sắc của họ: Dịch và lí thuyết dịch như một hệ hình lí luận, phê bình mới cho Việt Nam hiện nay, http://lyluanvanhoc.com/?p=5852.
(4) (5) (6) Phạm Quốc Lộc – Lê Nguyên Long, tlđd.
(7) Horkheimer (1982), Critical theory, http://plato.stanford.edu/entries/critical-theory/, tr. 244
(8) Thái Kim Lan (2004), Khai sáng và tiến bộ – nhìn từ góc độ triết sử Tây phương, Tạp chí thời đại, số 3, http://primeproxy23.info/browse. php?u=Oi8vd3d3LnR hcGNoaXRob2lkYWkub3JnL1Rob2lEYWkzLzIwMDQwM 19US0xhbi5odG0%3D&b=5
(9) (10) Thái Kim Lan, tlđd.
(11) Ronald Inglehart (2008), Hiện đại hóa và hậu hiện đại hóa (Nguyễn Thị Phương Mai, Nguyễn Chí Tình, Nguyễn Mạnh Trường dịch; Vũ Thị Minh Chi hiệu đính), Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 57.
(12) Alain Touraine (2003), Phê phán tính hiện đại (Nguyễn Kiến Giang dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội, tr. 253.
(13) Bùi Văn Nam Sơn, Hiện đại thứ hai và nền văn hóa công luận,http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/BuiVanNamSon/HienDaiThuHaiVaNenVanHoa chúng tôi
(14) Critical theory, http://plato.stanford.edu/entries/critical-theory/
(15) (16) Bùi Văn Nam Sơn, tlđd.
Theo Đặng Hoàng Giang/Văn hoá Nghệ chúng tôi
Bạn đang xem bài viết Về Khái Niệm Tư Duy Phản Biện trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!