Cập nhật thông tin chi tiết về Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp mới nhất trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là gì?
Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là các hành vi trái phép xâm phạm quyền và lợi ích của chủ thể sở hữu đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp?
Hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí (Điều 126 Luật Sở hữu trí tuệ)
Sử dụng sáng chế được bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với kiểu dáng đó, thiết kế bố trí được bảo hộ hoặc bất kỳ phần nào có tính nguyên gốc của thiết kế bố trí đó trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu;
Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mà không trả tiền đền bù theo quy định về quyền tạm thời quy định tại Điều 131 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh (Điều 127 Luật Sở hữu trí tuệ)
Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh đó; Người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh bao gồm chủ sở hữu bí mật kinh doanh, người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng bí mật kinh doanh, người quản lý bí mật kinh doanh.
Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;
Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ bí mật kinh doanh;
Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người nộp đơn theo thủ tục xin cấp phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan có thẩm quyền;
Không thực hiện nghĩa vụ bảo mật quy định tại Điều 128 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý (Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ)
Các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:
Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền đối với tên thương mại.
Các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ:
Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm mặc dù có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý, nhưng sản phẩm đó không đáp ứng các tiêu chuẩn về tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý;
Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm tương tự với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý nhằm mục đích lợi dụng danh tiếng, uy tín của chỉ dẫn địa lý;
Sử dụng bất kỳ dấu hiệu nào trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó làm cho người tiêu dùng hiểu sai rằng sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực địa lý đó;
Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ đối với rượu vang, rượu mạnh cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu chỉ dẫn về nguồn gốc xuất xứ thật của hàng hóa hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc được sử dụng kèm theo các từ loại, kiểu, dạng, phỏng theo hoặc những từ tương tự như vậy.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ)
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ;
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ;
Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.
Lưu ý:
Chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hóa, nhãn hàng hóa.
Tự bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp?
Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp;
Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp?
Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác thì tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự , hành chính (Nghị định số 99/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp) hoặc hình sự (Điều 226 Văn bản hợp nhất Bộ luật Hình sự số 01/VBHN-VPQH).
Khái Niệm Các Tội Phạm Xâm Phạm Quyền Sở Hữu
– Cướp tài sản(Điều 168): Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
– Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169): hành vi bắt người làm con tin nhằm buộc người khác phải nộp cho mình một khoản tiền hoặc tài sản thì mới thả người bị bắt
– Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170): đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản
– Tội cướp giật tài sản (Điều 171): hành vi công khai chiếm đoạt tài sản của người khác một cách nhanh chóng và bất ngờ rồi tẩu thoát để tránh sự phản kháng của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản
– Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172): hành vi lợi dụng sơ hở, vướng mắc của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản để lấy tài sản một cách công khai
– Tội trộm cắp tài sản (Điều 173): hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác quản lý
– Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174): người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin và giao tài sản để chiếm đoạt tài sản đó
– Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175): là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
– Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176): hành vi cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được sau khi có yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật
– Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177): hành vi của một người vì vụ lợi đã khai thác một cách trái phép giá trị sử dụng của tài sản do đang chiếm giữ
– Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178): gồm hai hành vi phạm tội độc lập. Theo đó, người phạm tội có hành vi tác động vào tài sản thuộc sở hữu của người khác, làm cho tài sản đó bị mất giá trị sử dụng (hủy hoại tài sản) hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản (làm hư hỏng tài sản)
– Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179): hành vi của người có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước đã không thực hiện đầy đủ các biện pháp quản lý tài sản thuộc trách nhiệm quản lý trực tiếp của mình làm mất mát, hư hỏng, lãng phí tài sản đó
– Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180): hành vi của một người tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, nhưng cho rằng thiệt hại đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn để mặc cho sự việc xảy ra.
Chủ Sở Hữu Và Nội Dung Quyền Sở Hữu Công Nghiệp
I. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp
1. Chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp tương ứng.
2. Chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hoặc có nhãn hiệu đã đăng ký quốc tế được cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc có nhãn hiệu nổi tiếng.
3. Chủ sở hữu tên thương mại là tổ chức, cá nhân sử dụng hợp pháp tên thương mại đó trong hoạt động kinh doanh.
4. Chủ sở hữu bí mật kinh doanh là tổ chức, cá nhân có được bí mật kinh doanh một cách hợp pháp và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Bí mật kinh doanh mà bên làm thuê, bên thực hiện nhiệm vụ được giao có được trong khi thực hiện công việc được thuê hoặc được giao thuộc quyền sở hữu của bên thuê hoặc bên giao việc, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
5. Chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước. Nhà nước trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cho tổ chức, cá nhân tiến hành việc sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tại địa phương tương ứng và đưa sản phẩm đó ra thị trường. Nhà nước trực tiếp thực hiện quyền quản lý chỉ dẫn địa lý hoặc trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý cho tổ chức đại diện quyền lợi của tất cả các tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý.
II. Quyền của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp
1. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có các quyền tài sản sau đây:
a) Sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp và chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp;
b) Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp;
c) Định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp.
2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền sử dụng, quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có các quyền sau đây:
a) Tổ chức được trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có quyền cho phép người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý đó theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
b) Tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc tổ chức được trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có quyền ngăn cấm người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý đó theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
III. Sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
1. Sử dụng sáng chế là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Sản xuất sản phẩm được bảo hộ;
b) Áp dụng quy trình được bảo hộ;
c) Khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ;
đ) Nhập khẩu sản phẩm quy định tại điểm c khoản này.
2. Sử dụng kiểu dáng công nghiệp là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Sản xuất sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ;
c) Nhập khẩu sản phẩm quy định tại điểm a khoản này.
3. Sử dụng thiết kế bố trí là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Sao chép thiết kế bố trí; sản xuất mạch tích hợp bán dẫn theo thiết kế bố trí được bảo hộ;
c) Nhập khẩu bản sao thiết kế bố trí, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí hoặc hàng hóa chứa mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí được bảo hộ.
4. Sử dụng bí mật kinh doanh là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Áp dụng bí mật kinh doanh để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại hàng hóa;
5. Sử dụng nhãn hiệu là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
c) Nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.
7. Sử dụng chỉ dẫn địa lý là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Gắn chỉ dẫn địa lý được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
c) Nhập khẩu hàng hóa có mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.
IV. Quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
1. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp nếu việc sử dụng đó không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
2. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý không có quyền cấm người khác thực hiện hành vi thuộc các trường hợp sau đây:
a) Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc mục đích phi thương mại hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin phép sản xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm;
b) Lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra thị trường nước ngoài;
c) Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí chỉ nhằm mục đích duy trì hoạt động của các phương tiện vận tải của nước ngoài đang quá cảnh hoặc tạm thời nằm trong lãnh thổ Việt Nam;
d) Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp do người có quyền sử dụng trước thực hiện;
đ) Sử dụng sáng chế do người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thực hiện;
e) Sử dụng thiết kế bố trí khi không biết hoặc không có nghĩa vụ phải biết thiết kế bố trí đó được bảo hộ;
g) Sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu nhãn hiệu đó đã đạt được sự bảo hộ một cách trung thực trước ngày nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý đó;
h) Sử dụng một cách trung thực tên người, dấu hiệu mô tả chủng loại, số lượng, chất lượng, công dụng, giá trị, nguồn gốc địa lý và các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ.
3. Chủ sở hữu bí mật kinh doanh không có quyền cấm người khác thực hiện các hành vi sau đây:
a) Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh thu được khi không biết và không có nghĩa vụ phải biết bí mật kinh doanh đó do người khác thu được một cách bất hợp pháp;
b) Bộc lộ dữ liệu bí mật nhằm bảo vệ công chúng;
c) Sử dụng dữ liệu bí mật không nhằm mục đích thương mại;
d) Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra một cách độc lập;
đ) Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra do phân tích, đánh giá sản phẩm được phân phối hợp pháp với điều kiện người phân tích, đánh giá không có thỏa thuận khác với chủ sở hữu bí mật kinh doanh hoặc người bán hàng.
Các Tội Xâm Phạm Sở Hữu Có Tính Chiếm Đoạt
Các tội xâm phạm sở hữu có tình chiếm đoạt là những tội xâm phạm sở hữu bằng việc chiếm đoạt và (do vậy) trong cấu thành tội phạm của những tội này có dấu hiệu chiếm đoạt.
Chiếm đoạt được hiểu là hành vi cố ý chuyển dịch trái phát luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình.
Dấu hiệu đặc trưng trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Về khách thể của tội phạm : Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Đ ối tượng tác động thuộc khách thể của các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có đối tượng tác động là tài sản thuộc sở hữu của người khác (không phải là của người phạm tội) và chúng còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.
Về Dựa vào quy định của Bộ luật Hình sự và thực tiễn áp dụng, các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có hành vi khách quan khác nhau. Đó có thể là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được (đối với hành vi khách quan thuộc mặt khách quan của tội phạm: tội cướp tài sản ); hành vi bắt cóc con tin và hành vi đe dọa chủ tài sản (đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ); hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc hành vi uy hiếp tinh thần người khác (đối với tội cưỡng đoạt tài sản ); hành vi chiếm đoạt (đối với các tội cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Tuy nhiên, thủ đoạn, cách thức thực hiện hành vi và điều kiện khi thực hiện hành vi là khác nhau và chúng là dấu hiệu phân biệt các tội phạm có cùng hành vi chiếm đoạt với nhau. Cụ thể, đối với tội Cướp giật tài sản, dấu hiệu công khai là thuộc tính của hành vi chiếm đoạt và dấu hiệu nhanh chóng phản ánh thủ đoạn của người phạm tội; đối với tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, đó là dấu hiệu công nhiên (tính công khai của hành vi chiếm đoạt) và hoàn cảnh, điều kiện tự nhiên mà hành vi chiếm đoạt được thực hiện (chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản cho dù người phạm tội không hề sử dụng thủ đoạn nào); đối với Trộm cắp tài sản, đó là thủ đoạn lén lút của người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt; đối với Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đó là thủ đoạn gian dối được thực hiện trước khi hành vi chiếm đoạt được thực hiện.
Về dấu hiệu lỗi, mục đích thuộc mặt chủ quan của tội phạm: Tất cả các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Tức người phạm tội biết hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện. Người thực hiện hành vi vi phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đều có ý thức chiếm đoạt. Xuất phát từ khách thể được bảo vệ mà hành vi khách quan của các tội này không có dấu hiệu chiếm đoạt cho nên dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy, dấu hiệu mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Đây là cơ sở phân biệt các tội này với các tội khác do Bộ luật Hình sự quy định có hành vi khách quan tương tự như hành vi phạm tội của các tội này.
Khái niệm chiếm đoạt và những biểu hiện của dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
(i) Khái niệm chiếm đoạt trong dấu hiệu chiếm đoạt
Để hiểu những biểu hiện của mục đích chiếm đoạt, hành vi chiếm đoạt cần hiểu được khái niệm chiếm đoạt. K hái niệm chiếm đoạt cần phải bao quát cả ở khía cạnh hành vi phạm tội và mục đích phạm tội. Dựa vào những cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được quy định trong Bộ luật Hình sự có thể hiểu “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình”.
(ii) Về biểu hiện của mục đích chiếm đoạt
Mục đích chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc trong cấu thành các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản , tội cưỡng đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản . Tuy nhiên, biểu hiện mục đích chiếm đoạt của các tội này không phải đều giống nhau. Tùy thuộc vào từng tội cụ thể mà mục đích phạm tội xuất hiện trước khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội, trong khi thực hiện hành vi phạm tội hoặc sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
Chẳng hạn, đối với tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, do đây là các tội có cấu thành hình thức nên khi người phạm tội có hành vi mà điều luật mô tả thì tội phạm đã hoàn thành. Trong khi theo lý luận về các giai đoạn thực hiện tội phạm thì khi tội phạm ở giai đoạn hoàn thành (tội phạm hoàn thành) thì hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm nên không cần thêm bất cứ dấu hiệu nào khác. Cho nên, mục đích chiếm đoạt trong các tội này chỉ có thể xuất hiện trước và trong khi thực hiện hành vi phạm tội.
Trường hợp mục đích chiếm đoạt xuất hiện sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì tùy từng tội mà có sự định tội danh khác nhau. Chẳng hạn, đối với hành vi dùng vũ lục, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, nếu sau khi thực hiện hành vi người phạm tội mới có mục đích chiếm đoạt thì người phạm tội không phạm tội cướp tài sản mà có thể phạm tội giết người, cố ý gây thương tích, công nhiên chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ trái phép tài sản khi hành vi của người phạm tội đáp ứng mặt khách quan của từng tội tương ứng. Lập luận này cũng phù hợp với vấn đề chuyển hóa từ các tội cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản được quy định tại tiểu mục 6.2 mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 (viết tắt là Thông tư liên tịch số 02). Đó là trường hợp “Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản”. Bởi vì, trường hợp này, mục đích chiếm đoạt đã xuất hiện trước khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để giữ cho được tài sản khi tẩu thoát.
Đối với hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật mà sau khi thực hiện hành vi mới có mục đích chiếm đoạt thì sẽ có sự chuyển hóa từ tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật sang tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
Đối với hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn uy hiếp tinh thần người khác nhưng mục đích chiếm đoạt có trong hoặc sau khi thực hiện hành vi thì thì từng trường hợp sẽ có sự chuyển hóa từ tội có hành vi khách quan tương tự hành vi khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản như: tội khủng bố , tội bức tử, tội cưỡng dâm, tội cưỡng trẻ em, tội cưỡng ép kết hôn sang tội cưỡng đoạt tài sản.
Riêng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mục đích chiếm đoạt phải gắn liền với các hành vi dùng thủ đoạn gian dối, bỏ trốn hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản sau khi có được tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp. Nếu mục đích chiếm đoạt có trước hoặc vào thời điểm nhận tài sản qua hợp đồng thì người thực hiện hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chứ không phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
(iii) Về biểu hiện của hành vi chiếm đoạt
Hành vi chiếm đoạt, xét về mặt khách quan là hành vi làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó. Quá trình này xét về mặt pháp lí không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt với nội dung là quá trình như vậy được thể hiện ở những dạng hành vi cụ thể khác nhau, tuỳ thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm đoạt và tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể.
Việc xác định hành vi chiếm giữ có trái pháp luật hay không cần dựa vào quy định của pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự, ” Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật “.
Để chiếm đoạt tài sản tạo ra khả năng làm mất quyền sở hữu của chủ sở hữu và tạo ra quyền sở hữu cho mình, người phạm tội phải chiếm hữu tài sản một cách trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật dân sự không quy định thế nào là chiếm hữu trái pháp luật mà quy định hành vi chiếm hữu hợp pháp. Vì vậy, để xác định hành vi chiếm hữu của người phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cần phải xác định việc chiếm hữu của người phạm tội không thuộc các trường hợp chiếm hữu hợp pháp này.
Xem xét việc chiếm đoạt là một quá trình vào quy định đối với từng tội phạm cụ thể thấy rằng, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, để thực hiện được hành vi phạm tội, người phạm tội nhận tài sản từ người phạm tội nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt qua đúng quy trình bên trên. Tức là, người phạm tội tiếp cận tài sản qua việc dùng thủ đoạn gian dối, chiếm giữ tài sản rồi thực hiện việc chiếm đoạt. Đối với các tội cướp giật tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản, người phạm tội không nhận tài sản từ người phạm tội và người phạm tội chiếm giữ tài sản trước sự chứng kiến của người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt thông qua các giai đoạn tiếp cận tài sản, thực hiện hành vi chiếm giữ cũng là hành vi chiếm đoạt, tức hành vi chiếm giữ và hành vi chiếm đoạt là một. Đối với tội trộm cắp tài sản, người phạm tội không nhận tài sản từ người phạm tội và việc chiếm giữ tài sản không có sự chứng kiến của người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt chỉ có việc tiếp cận, thực hiện hành vi chiếm đoạt mà không có hành vi chiếm giữ tài sản. Chính vì vậy, trong khoa học luật hình sự, thực tiễn xét xử thống nhất, tội trộm cắp tài sản là tội mà dấu hiệu chiếm đoạt thể hiện qua việc người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt, được thể hiện qua 03 mức độ sau: (1) Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã dấu được tài sản trong người; (2) Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản; (3) Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu.
Việc xác định chính xác hành vi chiếm đoạt đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành (không xem xét dấu hiệu giá trị tài sản chiếm đoạt cũng như các dấu hiệu khác về bị xử phạt vi phạm hành chính, có tiền án về hành vi chiếm đoạt…) đối với các tội mà dấu hiệu chiếm đoạt thuộc hành vi khách quan của tội phạm. Tùy vào từng tội cụ thể mà thời điểm hoàn thành của tội phạm là khác nhau. Bên cạnh đó, khi xem xét thời điểm hoàn thành của tội phạm cần có sự phân biệt giữa thời điểm tội phạm hoàn thành với thời điểm tội phạm kết thúc. Theo khoa học luật hình sự, thời điểm tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt; tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Phạm vi hành nghề của luật sư trong lĩnh vực hình sự:
Bài viết thực hiện bởi: thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh – Công ty Luật TNHH Everest
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các luật sư, chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
Bạn đang xem bài viết Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp trên website Tvzoneplus.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!